← Quay lại trang sách

- XXXI - ĐẤU SÚNG

Kịch bản ư? – Thôi đi!

Lơgrăng vời tôi, hai đứa đã rủ nhau cùng viết chung một vở kịch.

Tám ngày sau hai đứa nhất trí bỏ cuộc.

Chúng tôi, mỗi đứa mỗi đằng, chỉ sống bằng những điều mình đã đọc được thôi, mà nền giáo dục của hai đứa lại đối chọi nhau, muốn xung đột với nhau. Người ta ít nói với tôi về Chúa lòng lành – Còn Lơgrăng lại chịu sự giáo dục của một người mẹ theo đạo gia-tô và máu anh có pha nước thánh.

Anh đã tìm được một câu để biểu thị chân tướng khuynh hướng của cái mà anh gọi là tâm hồn chúng tôi!

“Tớ tin ở Đấng trên kia, cậu tin ở những kẻ dưới này”.

Đúng thế, và hai niềm tin tưởng của chúng tôi lúc nào cũng va chạm và hăm dọa nhau.

Tình hình đó trở nên kinh khủng! Trong căn buồng kê hai giường này nổ ra những trận bão táp thực sự.

Căn buồng chật chội quá cho ba chúng tôi, Lơgrăng Vanhtrax và Bần cùng. – Con mụ khốn kiếp! Nó làm chúng tôi từng phút xô xát nhau, xúc phạm lẫn nhau trước những chiếc giường tồi tàn, lò sưởi, cái bàn khập khiễng.

Chúng tôi đã đi tới chỗ hầu như thù ghét nhau. Nó chưa lộ ra trên miệng nhưng nó đã nằm trong con mắt. – Chúng tôi chửi nhau bằng mắt vì một cánh cửa ra vào để ngỏ, một cửa sổ đóng, một cây nến thắp quá khuya; chúng tôi hoài công giấu nhau hoặc giấu bản thân mình nỗi chán ngấy và bực bội cảnh chung đụng đấy.

Cứ như một cuộc hôn nhân trong nhà tù, giữa những phạm nhân ghen tuông!

Chúng tôi không được có nhân tình và bắt buộc phải sống chay tịnh.

Nếu có một người đàn bà tới thì đứa kia phải đi… Ngoài đường trời lạnh; và có khi chuyện đó xảy ra đúng mình đang có đà viết: chưa bao giờ có cảm hứng như thế, - thật là tội vạ!

Đến cả lòng ham muốn làm việc của chúng tôi cũng bị tiêu tan vì cuộc xung đột ngấm ngầm ấy.

Với tính nết như chúng tôi, có những lúc chúng tôi có thể bắn nhau được nếu có một khẩu súng lục trong tay.

Người ta đã kiếm ra súng lục!

Một người nằm kia lăn dưới đất trong một vũng máu đó. Chính tôi là người đã bắn.

Một buổi tối, Lơgrăng đã tát tôi – không hiểu vì chuyện gì! Tôi đã không bao giờ hỏi anh; tôi sẽ không bao giờ hỏi anh về việc đó!

Có thể vì một người phụ nữ.

Vì cớ gì thì cũng mặc!

Chính nó là giọt sữa đã làm bình sữa trào ra; có lẽ tôi phải nói là giọt lệ cay đắng, vẫn đọng ở lông mi chúng tôi trong những năm sống cạnh nhau.

Nếu chúng tôi đã có cuộc xô xát ấy, nếu ngày hôm sau chúng tôi lại tiếp tục với vũ khí trong tay, thì là vì hai đưa đem đối chọi nhau tất cả nỗi đắng cay của nhà tù, ở đó hai đứa cùng kéo lê một chiếc xích.

Mỗi chúng tôi đều có đạo đức theo kiểu của mình vì có tham vọng theo cách của mình – và những kiểu cách đó đều ứ máu qua từng cử chỉ mỗi người trong bóng tối kinh khủng của cuộc sống chúng tôi!

- Trong một cuộc chung sống phải có một con cái và con được, một người mà chúng tôi hỏi ý kiến về câu chuyện xích mích đã nói như vậy. Đây không có con cái. À có! Có một con cái: cái Đói; và các cậu sẽ giết nhau vì kinh hãi nó cũng như những con đực giết nhau vì yêu một con cái.

Đúng thế! Và đấy là lý do tại sao tôi đã đòi Lơgrăng phải xin lỗi về hình thức, và tại sao Lơgrăng không chịu xin lỗi. Căn buồng chật chội quá đối với hai ý chí của chúng tôi, một ý chí dân Brơtanhơ, một ý chí dân Ôvécnhơ[1*]… nhất là chúng tôi lại không được xả hơi trong những cuộc cãi lộn nhỏ ở những kẻ yếu đuối. Hai ý chí đó đã nín lặng hoặc gần như thế, nhưng dù sao vẫn hăm dọa nhau trong sự im lặng ấy; bây giờ chúng sắp lên tiếng bằng họng súng lục hoặc bằng lưỡi kiếm nhọn.

Nhưng chỉ một nhát đâm thôi chẳng đủ. Lưỡi kiếm không đủ; nó chỉ làm xước tấm gương lớn ảm đạm như từ dưới đất nhô lên do cử chỉ của Lơgrăng, sừng sững trước mặt tôi – để tôi nhìn vào đó thấy hình ảnh tuổi thanh xuân phủ màu đen của chúng tôi!

Phải bắn vào đấy, bắn bằng đạn, bắn cho tới lúc nghe tiếng vỡ loảng xoảng.

“Anh hãy nói với những người làm chứng của ông Lơgrăng rằng chúng tôi sẽ đấu súng, nếu Lơgrăng muốn cho tới khi một trong hai đứa ngã gục.

- Anh hãy nói với ông Vanhtrax rằng tôi nhận lời”.

Hôm ấy là ngày thứ bảy, vào tám giờ tối. Chúng tôi có đủ thì giờ để thu xếp tất cả mọi việc cho ngày mai.

Thỏa thuận về điều kiện thì được! Nhưng tìm võ khí thì không. Chúng tôi không có tiền.

Phải có tiền để thuê súng lục và ra đấu ở vùng nông thôn.

Phải chờ đến thứ hai. Thứ hai, thì có thể đi cầm đồ; nhưng không đâu nhận cầm đồ vào ngày chủ nhật.

Côlinê, anh bạn đồng học của chúng tôi ở Năngtơ, anh sinh viên trường thuốc sẽ chứng kiến trận đấu với tư cách là thầy thuốc, có một chiếc dây và một chiếc đồng hồ vàng. Đem cầm có thể được tám mươi phơrăng. Cộng với số tiền tôi có thì như thế cũng đủ về phần tôi.

Lơgrăng cũng cần hai mươi bốn tiếng đồng hồ để kiếm số tiền cần thiết.

Mấy giờ hiệu cầm đồ mở cửa?

“Chín giờ.

- Hẹn gặp nhau mười giờ ở tiệm cà-phê Variêtê cho gần nhà Carông cho thuê súng.

- Đồng ý.”

Ngày chủ nhật tràn ngập ánh mặt trời. Tôi nhớ là nó làm óng vàng những cốc rượu ápxanh trên bàn tiệm cà-phê ngoài trời, nơi chúng tôi ngồi; thỉnh thoảng gió hây hẩy thổi làm run rẩy và lấp lánh như lụa xanh lá cây trên đại lộ Môngpacnaxơ, trước quán của mụ Bôsơ; cuộc sống thật là thú vị.

Một cô gái, chưa bao giờ cởi cóocxê trước mặt tôi, tới ngồi bên cạnh tôi và hôn tôi lút miệng.

“Nghe nói anh sắp đấu súng. Nếu anh chết anh cũng đã được chiếc hôn này rồi; và nếu anh muốn, đêm nay em sẽ ngủ với anh.”

Cô có bông hoa cài ở tai. Cô lấy bông hoa cho tôi.

“Đây, nếu anh chết, người ta sẽ chôn anh với bông hoa này.”

Và cô cười!

Vào lúc tiết trời ấm áp, trong quán cà-phê vui vẻ dưới bầu trời mây trắng xốp, cô không tin, không ai tin vào một trận đấu súng ác liệt. Điều đó làm tôi bực mình và cáu kỉnh! Vậy ra họ cho tôi thuộc hàng người phái nhân chứng đi để đùa chơi. Vậy ra họ không đoán được tôi là người thế nào và tôi muốn gì; vậy ra họ không cảm thấy ở tôi một con người mù quáng lao theo mục đích của mình, và để đạt tới hắn sung sướng hơn là bất bình được sắm vai chính trong một bi kịch đẫm máu!

Họ đã bàn nhau dẫn tôi đi tập bắn. Để làm gì? Tôi cần gì biết mình bắn giỏi hay không? Tôi chẳng hề bận tâm về chuyện đó. Tôi cũng không hề tự hỏi xem tôi sẽ bắn người ta bị thương hay tôi sẽ bị thương, tôi sẽ chết hay tôi sẽ bắn chết người ta.

Đã từ lâu, tôi ghi trong đầu tôi, như bằng một mũi đinh nhọn, rằng tôi phải dũng cảm, dũng cảm hơn đám đông, rằng lòng dũng cảm đó là sự trả thù của kẻ xấu số, là võ khí của kẻ cô độc.

Tôi đã báo trước cho nhân chứng của tôi biết rằng hai bên sẽ không bắn theo sự chỉ huy, mà sẽ xông vào nhau theo ý muốn.

Theo cách đó, dù trúng đạn rồi, tôi vẫn có thể tới khá gần Lơgrăng để hạ anh.

Anh em nài ép đã khiến tôi không từ chối được việc đến nơi tập bắn.

Lơgrăng và bạn bè của anh ở đấy ra; hai bên chào nhau như những người xa lạ.

Một bù nhìn bằng tôn mà áo sắt lỗ chỗ những vết trắng, đứng áp vào tường.

Tôi đếm những vết trên áo.

- Mười một?

- Phải, người nạp đạn vào súng đáp. Ông Lơgrăng bắn giỏi. Ông ta chỉ trượt có một phát.

Ông ta lau chùi cho con người bằng tôn và đưa súng cho tôi, tôi bắn hết mười hai viên đạn.

Chỉ trúng có một viên.

Các ông bầu của tôi có vẻ sững sờ, gần như họ bĩu môi. Họ muốn gà của họ giỏi hơn thế.

Chúng tôi chia tay nhau lúc mười giờ tối.

“Anh nên đi ngủ sớm, một người có vẻ am hiểu vấn đề bảo tôi. Như vậy khí huyết trong người sẽ bình tĩnh hơn, khi bắn chắc tay hơn.

Tôi đi nằm và ngủ say mê mệt.

Tuy nhiên tôi dậy từ sáng sớm, và tôi thoáng nghĩ đến khả năng có thể bị bắn què hoặc hấp hối kéo dài trước khi chết. Thôi được! Đến thế là hết. Nếu tôi chết, người ta sẽ bảo tôi can đảm; nếu tôi bị què, phụ nữ sẽ biết vì đâu và vẫn yêu tôi. Vả lại không phải chỉ có thế! Tôi cần san phẳng địa bàn, lấy chỗ để tiến bước; tôi cần bằng một đòn tỏ rõ bản lĩnh của tôi, và giành lấy sự kính trọng của bọn hèn nhát trong mười năm.

Từ cửa sổ tôi nhìn thấy vườn Luycdămbua. Nói thật tình, khi nhìn khu vườn lớn ngớ ngẩn ấy lần cuối cùng; khi thấy những lão cuồng si đầu bạc sáng nào cũng tới nơi mát mẻ này lê giầy vải mềm và lấy mũi can làm bẩn làn sương trên cỏ; thật tình, tôi tự nhủ rằng chẳng làm nạn nhân của cỏ cây rầu rĩ. Lơgrăng với tôi, chúng tôi sắp sửa trong một lúc làm chủ cả một khoảnh thiên nhiên; chúng tôi sắp gây một tiếng động như sấm trong một thung lũng im lặng, chúng tôi sắp dùng đạn chì quất vào không khí nặng nề đang đè trĩu trên đầu chúng tôi.

Đấy là buổi sáng kiêu hãnh đầu tiên trong cuộc đời tôi, luôn luôn bị sỉ nhục và đau khổ. Có đáng kéo lê cuộc sống như thế, - để đi tới cái ngu xuẩn của đám cuồng si đầu bạc kia không?… Chẳng thà biến ngay tức khắc với một cái chết hiên ngang.

Nào hãy vận chiếc sơ mi đẹp nhất, để tôi có vẻ đường hoàng trong bộ áo quần nếu tôi là người ngã xuống.

Tôi tìm dáng điệu cần phải có, súng lục cầm tay, và tôi ngắm trong gương xem khi ngắm bắn tôi có cái vẻ oai phong.

“Đừng để lộ cái gì trắng ra”, người ta đã bảo tôi.

Tôi cài cúc áo lại không để một ánh sơ-mi lọt ra ngoài.

Các nhân chứng của tôi bước vào buồng.

“Anh đã suy nghĩ kỹ chưa? Việc có thể dàn xếp được không?…”

Nghe mà muốn tát vào mặt họ.

“Ít ra thì các anh cũng chỉ bắn một phát đạn thôi chứ?”

Và họ vỗ vào lưng tôi, nói với tôi như với một thằng nhóc con: “Nào! Đừng nên làm mặt giận dữ như thế!”

Chính vì họ, vì muốn tỏ ra can đảm trước mặt họ, chính vì một công chúng gồm những kẻ ngu xuẩn như thế mà tôi sắp phải nhờ đến sự rủi may của súng đạn!

Thêm vào đó, họ bắt đầu làm tốn kém cho tôi.

Không phải là tôi hà tiện, nhưng tôi căm uất khi thấy họ gọi hàng, chạm cốc, uống mà quên phắt cá nhân tôi và hết sức vô tình với cảnh nghèo của chúng tôi.

Hơn nữa họ lại buông những lời mà tôi không ưa.

“Chúng ta uống như trong một đám ma vậy”, một người trong số đó nói.

Dù anh can đảm đến mấy, lời đó cũng làm cho anh khẽ rợn mình.

Thôi! Chín giờ rồi, hiệu cầm đồ đã mở cửa. Côlinê đi xe tới đón tôi với đám nhân chứng. Lơgrăng ngồi trong một chiếc xe ngựa khác với người của anh ta.

Chúng tôi vào tiệm Cà-phê Variêtê. Các nhân chứng chỉ ngồi đủ thời giờ uống một cốc sô-cô-la, xong họ cũng tới hiệu cầm đồ để từ đó tới nhà hàng vũ khí.

Chỉ còn hai đứa ở lại, Lơgrăng với tôi: Lơgrăng ngồi bên trái hiên, tôi ngồi bên phải, Chúng tôi chờ.

Nhưng sao mà họ lâu thế!

Hai chúng tôi lần lượt bước ra ngoài vỉa hè ngó nhìn suốt dọc đại lộ.

Lão chủ theo dõi chúng tôi.

Trong tiệm cà-phê, những người khách mới đến được bọn bồi bàn cho biết, chỉ trỏ chúng tôi và đánh cuộc với nhau.

“Tôi bảo đấy là hai thằng nhát! – Không, hai thằng bịp.”

Ôi! Cái lố bịch và xấu hổ này!… Thà tôi ngã vật ra trên chiếc ghế dài này, sườn gẫy hoặc trán thủng, còn hơn làm bia cho những con mắt nhìn và những lời chế nhạo kia…

Cuối cùng, đám nhân chứng trở về!

“Có chuyện gì thế?”

Người ta hỏi những đồ đem cầm nhưng Côlinê lại quên không mang đi. Anh phải quay về nhà lấy.

“Các cậu có tiền chứ?

- Có.

- Trả tiền sô-cô-la đi!” và tôi thở phào khoan khoái.

Tôi thấy Lơgrăng cũng làm thế.

Thật là vừa may: chúng tôi đang sắp sửa tạm thời dàn hòa với nhau để một trong hai đứa chạy đi kiếm lấy một trăm xu.

Thậm chí tôi còn có đề nghị với Lơgrăng một cuộc đấu ghê gớm và ngay tức khắc. Hai đứa sẽ rút thăm xem đứa nào phải tới quầy và nói thẳng: “Tiền sô-cô-la để tôi chịu!”

Nhưng nếu tôi có đủ can đảm để đấu súng theo kiểu Mỹ thì nếu rút thăm trúng vào tôi, tôi sẽ không có đủ can đảm để tới quầy mà nói: “Tiền sô-cô-la để tôi chịu!”

Lên đường ra ga đi Xô!

Một nhân chứng biết ở mạn đó có một chỗ tốt.

Nhưng tới ga thì tầu đã chạy mất rồi.

“Hay ta đi xe ngựa?

- Tùy ý!”.

Nhờ hiệu cầm đồ, chúng tôi đâm ra giầu!

Tôi bảo xe ngựa dừng lại ở hiệu thuốc đầu tiên, và tôi mua một điếu xì gà gộc, rất gộc.

Qua cửa xe ngựa, người ta mời tôi mua hoa.

Tôi chỉ mua bó hoa một xu thôi. Hồi bé, tôi chỉ ngắt trộm một ít hoa cẩm chướng hay hoa tim trong vườn người ta: về sau, tôi không thể xén tiền bánh mì của tôi để làm giầu các cô hàng hoa, và tôi vẫn còn yêu thích những bó hoa kín đáo người ta ôm sát ngực hoặc trong tay; tôi nắn những bông hoa trong những ngón tay ấm áp, và cả một thế giới hình ảnh tươi mát nhảy múa trong đầu tôi, như những chiếc lá xanh gió vừa bứt khỏi cành.

Các bạn không nói gì cả. Càng tiến lên vẻ buồn bã của địa phương, cảnh hoang vắng của đồng ruộng, cái im lặng rầu rĩ, và có lẽ cả mối linh cảm về một tai họa sắp tới, càng làm cho lời nói nghẹn lại trong cổ họng mọi người; và tôi nhớ lại, tưởng chừng như vẫn còn đang sống trong cảnh đó, có một người trong số họ đã làm tôi phát sợ vì bộ mặt tái mét và con mắt chìm đắm!

Chà! Trận đấu súng này phải dọn đường cho cuộc đời tôi, nếu tôi không bỏ xác lại ở đấy. Cho nên, khi tới đó, tôi phải tổ chức cuộc đấu sao cho xứng đáng với tôi, xứng đáng với tư tưởng và ngọn cờ của tôi.

Tôi là một kẻ nổi loạn… Đời tôi sẽ là một cuộc đời chiến đấu. Tôi đã muốn thế. Lần đầu tiên, nguy hiểm hiện ra trước mặt, tôi muốn nhìn xem mặt mũi nó thế nào khi ta chọc nó, mà mặt mũi tôi thế nào khi đối diện với nó.

Chúng tôi đã tới Rôbanhxông, tôi không biết sau bao nhiêu mơ mộng triền miên và bao nhiêu đường đất.

Chúng tôi thấy một cái cây như nở đầy hoa với các cô gái tóc trần huýt sáo như đàn chim sáo hoặc đang gù gù như đàn chim cu.

Đó là ngày hội!

Những chiếc đu bay vút lên không, với những cô gái bị ngợp và cố kẹp váy vào chân mà vẫn hở để người ta trông thấy…

Tôi nhớ lại những ngày hội chùa ở quê tôi với những cô thôn nữ xinh đẹp ngực tròn mà đầu có tò mò học sinh của tôi đã lượn lờ xung quanh. Xác thịt tôi bấy giờ đã bừng dậy, khẽ thì thầm; hôm nay, khi đang chờ đợi vết thương, nó cũng lên tiếng.

“Cậu nghĩ gì vậy? Côlinê hỏi tôi.

- Không nghĩ gì cả, không!…”

Và chúng tôi đi qua đám hội chợ.

Trên một vũ đài các tay lực sĩ đang diễu võ dương oai. Họ giang thẳng cánh gõ chiếc cồng bằng đồng lốm đốm, căng ngực thét vào chiếc loa??? sủa và rống lên.

Xung quanh một bãi bắn, người ta đang đặt súng lên vai. Những tiếng nổ đó xé tan một cơn mơ màng đang nhen trong đầu óc sáng sủa của tôi, và đưa đám nhân chứng về với nhiệm vụ.

Trong một góc xa tiếng ồn ào, trước một chiếc bàn có cành lá vây kín mít, mọi người thảo luận về những ước lệ cuối cùng.

“Anh có bao nhiêu thuốc? Bao nhiêu đạn?

- Sáu viên.

- Tôi rất vụng nên số đạn đó có thể là ít quá. Nếu chúng tôi bắn mấy phát đầu tiên không trúng hoặc không đứa nào bị què cụt đến nỗi không bắn được nữa thì chúng tôi sẽ tiến lại gần nhau cách năm bước.

Tôi là người bị xúc phạm, tôi có quyền đòi rửa nhục theo ý riêng của tôi, thế nào cho tôi được thỏa mãn hoặc thích thú.

- Nếu vậy, các nhân chứng đồng thanh nói, chúng tôi sẽ là những kẻ chứng kiến và đồng lõa với một vụ giết người!”

Một vụ giết người trong đó hai bên đều bị nguy hiểm ngang nhau. Đấy là chuyện may rủi của chiến tranh.

Tôi đã phải nói đến những câu như thế với họ!

Họ bắt đầu sợ khi thấy gần tới giờ rồi và lường trước những hậu quả việc quyết định của tôi.

Tôi hoàn toàn bình tĩnh và cái mà họ gọi là sự nhẫn tâm của tôi chỉ là cử chỉ và tiếng kêu của một ý chí không chịu lùi bước.

Chúng tôi lên đường.

“Mặt cậu tái đi! Côlinê bảo tôi.

- Mình chắc thế! – ngày mồng 2 tháng chạp mình cũng tái mặt đi.”

Tôi đã có một lúc yếu đuối.

Một mụ nghèo khổ đi qua: phải lúc khác, tôi sẽ chỉ cho mụ hai xu. Lúc này tôi cho mụ hai mươi xu, để mụ chúc tôi: “Ông sẽ gặp điều may mắn”.

Tại Rôbanhxông khuất sau cây cối, các quán hội chợ vẫn có tiếng ồn ào, nhưng vì cách xa nên nó như bị xé ra và chỉ vọng đến chỗ chúng tôi từng mẩu nhạc man rợ.

Chúng tôi im lặng bước đi, Lơgrăng đi với các bạn anh và tôi đi với các bạn tôi.

Côlinê thỉnh thoảng lại mở túi thuốc ra với bàn tay bứt rứt như để xem có quên gì không, xem có đủ mọi thức cần thiết cho lát nữa không…

“Cậu nhớ cầm súng che đầu cho cẩn thận… như thế này này, cầm nghiêng, thành lưỡi dao! Một nhân chứng nhắc lại với tôi.

- Cậu cứ để Lơgrăng bắn trước” một anh khác khuyên tôi.

Tôi hầu như không để tai nghe và tôi phác ra những cử chị khinh thị in bóng lên con đường ngập ánh nắng. Bóng tôi in rõ nét như người bằng tôn trên bức tường trắng ở chỗ bắn hôm qua; suýt nữa thì tôi tìm kiếm những vết trắng trên quần áo tôi, những vết đạn trên người thằng bù nhìn…

Tôi chưa bao giờ là tôi cả dưới vòm trời này. Lúc nào tôi cũng bị ngạt thở trong những bộ quần áo quá chật và may cho người khác, hoặc trong những tập quán làm tôi bất bình, hoặc đè nén tôi. Vào hồi Đảo chính, tôi đã nuốt nhiều bùn hơn là nhai thuốc súng. Ở trường học, ở Khu phố La-tinh, trong các quán sữa, tiệm rượu hoặc nhà trọ, ở đâu đâu, tôi cũng bị tất cả mọi người chống lại tôi; thế nhưng tôi đã cố ghìm cử chỉ, chặn tiếng nói hèn giận…

Nhưng lúc này chỉ còn có hai chúng tôi thôi!… Có thêm ít người nữa. Viên đạn của tôi, nếu trúng, sẽ nẩy bật sang cả cái giống người đã, công nhiên hoặc giả mạo, giúp tay cho việc giết người lặng lẽ, cho cái máy chém không dính máu, bằng cách đẩy những kẻ phiến loại và những kẻ sống ngoài vòng vào cảnh bần cùng và thất nghiệp…

Dù đổi lấy một tài sản, tôi cũng không bỏ cơ hội này, nó có thể gây cho tôi trong chớp mắt, với hai đồng kẽm can đảm, một danh tiếng, nó là vinh quang đầu tiên của tôi – cái này thì tôi cóc cần! – nhưng điều cốt yếu, nó là công cụ cứng rắn và uy hiếp đầu tiên mà tôi có thể tạo ra từ chiếc bàn thợ của kẻ nổi loạn.

Đứng vào chỗ - bắn!

Tôi không thét những lời nào vào tai ai cả, nhưng tôi lẩm bẩm một mình như một kết luận: đấy là tổng số con tính của tôi.

Chúng tôi đi qua trước một cái trại. Các nhân chứng hỏi xem có gì uống không. Tôi uống một cốc nước lã. Lơgrăng cũng vậy; phải thật tỉnh táo để bắn nhau. Cả hai chúng tôi đều cùng một ý nghĩ; cũng như tôi, anh cảm thấy giờ phút này rất cần thiết cho chúng tôi, và anh cũng cảm thấy rằng một làn máu, dù từ đâu vọt ra đi nữa, sẽ rửa bùn nhơ và nỗi buồn của tôi thanh niên chúng tôi.

“Thưa các vị, một nhân chứng nói, giọng hơi run run, tôi vừa đi xem trước, và theo tôi đã tìm được một chỗ.”

Người ta chỉ nghe thấy tiếng cành cây khô gẫy dưới gót giầy, những tiếng ho cụt lủn phát ra từ những bộ ngực nghẹn ngào; người ta nghe thấy tiếng một con thằn lằn chạy, một con chim cất cánh… một tiếng trống của đám xiếc ở xa xa.

Bây giờ thì người ta nghe thấy cái khác. Đấy là tiếng nạp đạn vào súng lục, rồi một tiếng hô: “Tiến lên!”

Hai tiếng nổ vang khắp vùng quê. Cả hai chúng tôi vẫn đứng nguyên. Tôi đã bước lên không biết mấy bước, nhả đạn. Trượt. Lơgrăng, rất bình tĩnh, nhằm tôi rất lâu. Viên đạn của anh sượt qua tai tôi cách nửa phân, làm cháy xoắn cả tóc tôi. Đáng lẽ tôi phải cắt tóc đi. Tóc tôi bù xù, dễ nhằm bắn.

“Các anh có thể dừng lại được rồi! Côlinê nói. Cách nhau mười bước! Như thế là một vụ giết người! Chết cả hai thôi!

- Nạp đạn vào!”

Giọng nói hình như khẩn thiết, vì các nhân chứng đều răm rắp nghe theo.

Lơgrăng và tôi, mỗi người đi dạo ở phía mình, im lặng, rất giản dị, tay chắp sau lưng, và có vẻ như suy nghĩ.

Một con chó không biết ở đâu đến, quẩn vào chân tôi, và nhìn tôi bằng con mắt hiền lành, cầu xin một chút vuốt ve. Nó làm tôi nhớ tới con Miêcza, con chó cái của nhà tôi hồi tôi còn bé, nó thường đến liếm tay tôi và có vẻ như chảy nước mắt khi tôi khóc và bị đánh đòn. Khi ấy tôi đành để kệ nó, tôi chỉ có thể kể lại niềm đau khổ của tôi với con vật tội nghiệp ấy…

Người ta có quyền làm tôi đau đớn, và nếu tôi phàn nàn, người ta bảo tôi là đứa con hư và một phần tử xấu. Cuối cùng tôi lại phải xin lỗi.

Hôm nay, có năm người ở đây, tình cờ vì một cuộc xung đột, phó thác cho lòng can đảm của tôi, kẻ gây chuyện, nhân chứng và thầy thuốc!

Tự nhiên một nụ cười và cả một mẩu bài hát đến trên môi tôi. Tôi khẽ hát mặc dầu không muốn, như người ta xoa tay khi vui vẻ.

“Cậu im đi!” Côlinê nói khẽ.

Côlinê nói đúng. Tôi làm giảm cái tàn bạo hay ho của trận quyết đấu.

Các nhân chứng gọi chúng tôi.

“Đứng vào chỗ!”

Chúng tôi phải tiến lên một bước để chỉ rõ chúng tôi đã sẵn sàng. Bước xong, chúng tôi có quyền đứng im hoặc bước đi và chờ đợi.

Tôi muốn bắn trúng Lơgrăng. Cuối cùng anh đã làm tôi phát cáu vì đã từ chối không xin lỗi. Thật tình, dù bị bắn ngã, tôi cũng cóc cần.

Lần này lại vẫn tôi bắn trước.

Lơgrăng vẫn đứng, tiến lên, tiến nữa.

Lâu quá. Anh bắn. Tôi ngỡ mình bị thương.

Viên đạn để lại một vết trắng – như những viên đạn hôm qua anh bắn vào thằng người bằng tôn.

Viên đạn đã hớt mất mặt dạ bóng và làm sờn ống tay áo tôi.

Lại một cuộc vận động của các bạn để ngừng cuộc đấu.

Không!

Tôi thấy Lơgrăng bắn quá giỏi, còn tôi thì quá tồi. Tôi thấy sau khi đã mất nhiều thì giờ ở ngoài đồng, mà bỏ đi không có kết quả gì, thì thật nực cười. Tôi thấy là mục đích không đạt, cơ hội bỏ lỡ, và có lẽ không bao giờ nó trở lại đẹp đẽ như thế nữa.

Còn một ý nghĩ khác dày vò đầu óc tôi. Lại vẫn ý nghĩ về cảnh nghèo khổ.