Chương 10
Gần hai tuần lễ trôi qua. Cuộc sống ở Marino vẫn diễn ra theo nề nếp của nó. Arkadi vui chơi thoải mái, còn Bazarov thì cứ làm việc. Mọi người trong nhà nay đã quen với Bazarov, quen với những cử chỉ suồng sã và cách nói năng không rườm rà lại nhát gừng của chàng. Pheneska lại càng đặc biệt quen tính quen nết chàng, đến nỗi có hôm thấy thằng Mitia bị chứng co giật, đang đêm đã cho người đến đánh thức chàng dậy. Thế mà chàng cũng đã đến, và vẫn với cái vẻ nửa đùa nửa thật, ngáp ngắn ngáp dài như lệ thường, chàng đã ngồi trong buồng cô ta tới khoảng hai tiếng đồng hồ để chữa chạy cho thằng bé. Song ông Pavel Petrovich thì lại hết sức căm ghét Bazarov, cho chàng là một tên ngạo ngược, trâng tráo, trơ trẽn, một kẻ hạ đẳng. Ông ta ngờ rằng Bazarov không coi trọng ông, rằng Bazarov thậm chí có thể còn coi khinh ông nữa, mà ông chính là Pavel Petrovich Kirxanov chứ có phải ai khác đâu mà khinh rẻ được! Còn ông Nikolai Petrovich thì lại thấy ngài ngại cái anh “hư vô chủ nghĩa” trẻ tuổi này, hoài nghi tác dụng tốt của anh ta đối với Arkadi; song ông vẫn sẵn lòng nghe anh ta nói, vui lòng ngồi xem anh ta làm các cuộc thử nghiệm về vật lý và hóa học. Bazarov có đem theo một chiếc kính hiển vi và thường loay hoay với nó hàng mấy tiếng đồng hồ liền. Những người ăn kẻ ở trong nhà cũng quyến luyến chàng, mặc dù chàng luôn chế giễu họ, nhưng họ vẫn cảm thấy chàng là người anh em của mình, chứ không phải là một ông quý phái. Duniasa cũng sẵn lòng cười khúc khích với chàng, và mỗi khi chạy ngang qua “như một con cun cút”, thì cũng luôn liếc nhìn chàng một cách đầy ý nghĩa. Còn Piotr, một con người tự ái hết mức và ngốc nghếch, lúc nào cũng có vẻ căng thẳng với những nếp nhăn bất tận trên trán, mà tất cả ưu điểm chỉ là thường đưa mắt nhìn một cách lễ phép, biết đánh vần và thường lấy bàn chải ra chải chiếc áo ngoài nhỏ bé của mình, - thì cả anh ta nữa, anh ta cũng luôn nhếch mép cười và mặt anh ta luôn rạng rỡ lên mỗi khi Bazarov chú ý tới anh ta. Những thằng bé con, con cái các gia nhân, thường chạy ùa theo “ông đốctà” như một bầy chó con. Duy chỉ có một mình ông già Prokophich là không thích chàng, bộ mặt ông lúc nào cũng sa sầm mỗi khi đem các món ăn đến cho chàng lúc ngồi ở bàn ăn. Ông ta luôn gọi chàng là “cái ông lột da nhồi trấu”, “cái anh láu cá”, và luôn đoan chắc rằng: với hai chòm râu quai nón như thế, anh ta đúng là một con lợn nằm trong bụi cây. Theo kiểu riêng của mình, ông già Prokophich cũng quý phái chẳng kém gì ông Pavel Petrovich.
Đã đến những ngày đẹp nhất trong năm, những ngày đầu tháng Sáu. Thời tiết đẹp tuyệt vời. Quả vậy, từ nơi xa xôi bệnh dịch tả lại kéo đến đe dọa, nhưng dân trong tỉnh N. đã kịp quen với những chuyến viếng thăm của bệnh dịch này. Bazarov thường dậy rất sớm, rồi đi xa tới hai, ba verxta, và dĩ nhiên không phải là đi chơi, - chàng ta không bao giờ chịu nổi những chuyến đi chơi mà không có mục đích, - mà là đi để hái cỏ cây, bắt côn trùng. Đôi khi chàng để cho Arkadi đi theo. Trên đường về, giữa hai người thường xảy ra tranh luận, và bao giờ Arkadi cũng phải chịu thua, mặc dầu bao giờ Arkadi cũng nhiều lời hơn bạn.
Một hôm, vì một nguyên nhân gì đó, họ trở về nhà khá chậm trễ. Ông Nikolai Petrovich bèn ra vườn để đi đón họ, và khi đi ngang nhà hóng mát, đột nhiên ông nghe có tiếng chân rảo bước và tiếng hai chàng trò chuyện với nhau. Họ đi phía bên kia nhà hóng mát nên không trông thấy ông.- Cậu chưa hiểu hết ông bố mình đâu, - Arkadi nói.- Ông cụ cậu rất tốt, - Bazarov nói, - nhưng ông ấy về hưu rồi, thời oanh liệt của ông ấy hết rồi.Ông Nikolai Petrovich lắng tai nghe... nhưng không thấy Arkadi trả lời gì.“Con người về hưu” nán đứng im không nhúc nhích chừng hai phút rồi tha thẩn trở về nhà.- Đã ba ngày liền tớ thấy ông cụ đọc Puskin rồi đấy, - trong khi đó Bazarov tiếp tục nói. - Cậu hãy giải thích cho cụ rõ là cái đó chẳng đi đến đâu cả. Bởi lẽ cụ đâu có phải là trẻ con nữa, đã đến lúc nên bỏ cái trò dớ dẩn ấy đi được rồi đấy. Thời buổi này, ai lại lãng mạn như thế bao giờ! Cậu hãy đưa cho cụ đọc cái gì thiết thực ấy.
- Nên đưa cho cụ đọc cái gì? - Arkadi hỏi.
- Ờ thì mình nghĩ là bước đầu hãy cho cụ đọc cuốn Stoff und Sraft của Buchner 1 đã.
- Chính mình cũng nghĩ thế, - Arkadi nhận xét với vẻ tán thành. - Cách viết cuốn Stoff und Sraft cũng khá phổ thông đấy.
- Đấy, thế là em với bác, chúng ta là những kẻ về hưu cả rồi đấy, - ngay hôm ấy, sau bữa trưa, ông Nikolai Petrovich đã nói với ông anh mình, khi ông này ngồi chơi trong thư phòng của ông, - thời oanh liệt của chúng ta đã hết rồi. Còn gì nữa? Có thể là Bazarov nói đúng. Nhưng, quả thật, em đau lòng một nỗi là lâu nay mình hy vọng đúng vào lúc này được tiếp xúc chặt chẽ và thân tình với Arkadi, bây giờ hóa ra mình tụt lại sau, nó tiến lên trước, và hai bố con chẳng sao hiểu được nhau nữa.- Nó tiến lên trước là thế nào nhỉ? Nào nó có gì khác chúng ta lắm đâu? - ông Pavel Petrovich sốt ruột kêu lên. - Tất cả chỉ do cái nhà ông hư vô chủ nghĩa kia nhồi nhét vào đầu nó mà thôi. Tôi thì tôi ghét cái đồ thầy thuốc rởm ấy. Theo tôi thì hắn ta chỉ là một anh lang băm. Tôi tin chắc rằng cả về vật lý học hắn cũng chẳng tiến lên phía trước được với cái lũ ếch nhái ấy.
- Không, chớ nói thế, anh ạ. Bazarov là tay thông minh và có hiểu biết đấy.
- Mà lại tự ái đến gớm ghiếc, - ông Pavel Petrovich lại cắt ngang.
- Phải, - ông Nikolai Petrovich nhận xét, - anh ta có tự ái thật. Nhưng hiển nhiên là không thế cũng chẳng được. Duy có một điều em không sao hiểu nổi. Em tưởng chừng như mình đã hết sức cố gắng để khỏi lạc hậu so với thời đại: mình đã xếp đặt cho nông dân, mình đã lập ra trang trại, đến nỗi cả tỉnh này người ta bảo mình là đỏ nữa kia. Rồi mình đọc sách, mình học tập, nói chung là cố gắng để theo kịp những đòi hỏi hiện đại, - thế mà rồi họ lại bảo mình rằng thời oanh liệt của mình nay còn đâu. Anh ạ, vậy mà em cũng bắt đầu nghĩ rằng đúng là thời oanh liệt của mình hết thật rồi đấy.
- Tại sao lại thế được?
-Số là như thế này. Hôm nay em đang ngồi đọc Puskin... Em còn nhớ là ngẫu nhiên mình vớ được cuốn
Những người Zigan thì phải... Bỗng thằng Arkadi tiến lại gần em, lặng lẽ nhưng với một vẻ thương hại đầy trìu mến trên nét mặt, nó nhẹ nhàng đoạt lấy cuốn sách hệt như đoạt lấy của một đứa trẻ con vậy. Sau đó nó đặt trước mặt em một cuốn sách khác, một cuốn sách của Đức... rồi mỉm cười bỏ đi, mang theo cả cuốn sách của Puskin.
- Thế kia ư? Vậy nó đưa cho chú cuốn sách gì?
- Cuốn này đây.
Rồi ông Nikolai Petrovich rút từ túi áo phía sau ra cuốn sách nhỏ lừng danh, xuất bản lần thứ chín, của Buchner.
Ông Pavel Petrovich xoay xoay cuốn sách trong tay.- Hừm! - ông hậm hực. - Thằng Arkadi nó lại chăm lo giáo dục cho cả chú nữa đấy. Thế sao, chú đã thử đọc rồi chứ?
- Em đã thử đọc rồi.
- Vậy chú thấy thế nào?
- Hoặc là em ngu dốt, hoặc tất cả những gì trong đó đều là nhảm nhí. Chắc hẳn em ngu dốt.
- Mà chú cũng chưa quên tiếng Đức nhỉ? - Ông Pavel Petrovich hỏi.
- Tiếng Đức em hiểu được.
Ông Pavel Petrovich lại xoay xoay cuốn sách trong tay rồi gườm gườm nhìn ông em. Cả hai ông đều nín lặng.
- À, vâng... - ông Nikolai Petrovich lại mở lời, chừng như muốn chuyển sang nói chuyện khác, - tiện thể nói để anh biết là em có nhận được thư của Koliazin.
- Của Matvei Ilich ấy ư?
- Vâng, của ông ấy. Ông ấy đến N. để thanh tra tỉnh này. Bây giờ ông ta đang có thế lực, viết thư nói muốn thân tình gặp gỡ chúng ta, mời anh và em cùng Arkadi lên tỉnh chơi.
- Chú đi chứ? - ông Pavel Petrovich hỏi.
- Không ạ, thế còn anh?
- Tôi cũng chẳng đi. Tội quái gì ăn bát cháo chạy ba quãng đồng.
Mathieu muốn cho chúng ta thấy toàn bộ cảnh vinh hoa hiển đạt của ông ta, nhưng kệ xác ông ta! Tỉnh này thiếu gì kẻ nịnh hót ông ta, ông ta cần gì đến cánh mình. Với lại cái hàm viên chức bậc ba 2 ấy thì nào có quan trọng ghê gớm gì! Nếu tôi tiếp tục phục vụ, nai lưng ra công cán một cách ngu xuẩn, thì bây giờ tôi cũng là tướng tùy tùng rồi. Hơn nữa tôi với chú đều đã là những kẻ về hưu.
- Phải đấy, anh ạ. Rõ ràng là đến lúc phải đặt mua sẵn quan tài và chắp tay theo hình thánh giá lên trước ngực rồi, - ông Nikolai Petrovich nhận xét trong một tiếng thở dài.
- Ờ, nhưng tôi thì không chịu bó tay sớm thế đâu, - ông anh lẩm bẩm nói vậy, - chúng ta còn phải vật lộn với cái thằng cha thầy thuốc rởm này nữa kia, tôi linh cảm trước thấy như thế đấy.
Và cuộc vật lộn đã xảy ra ngay trong ngày hôm đó, trong bữa trà vào ban chiều. Ông Pavel Petrovich đã bước xuống phòng khách với tâm trạng bực dọc, với lòng quyết tâm, và sẵn sàng chiến đấu. Ông chỉ chờ có cớ là nhảy xổ vào kẻ thù, nhưng chờ mãi vẫn không thấy có cớ gì cả. Nhìn chung, Bazarov vẫn ít nói khi có mặt các “ông bô Kirxanov” (chàng vẫn thường gọi hai anh em ông ta như vậy), nhưng chiều hôm ấy chàng lại còn cảm thấy trong lòng không vui nữa, nên cứ lặng lẽ uống hết cốc trà này đến cốc trà khác. Ông Pavel Petrovich sốt cả ruột, nhưng rồi cuối cùng ông cũng đã được toại nguyện.
Câu chuyện vừa chuyển sang nói tới một trong những vị địa chủ láng giềng. Bazarov đã từng gặp ông ta tại Peterburg, bèn thản nhiên nhận xét: “Một đồ tồi, một anh quý tộc quèn”.
- Xin phép hỏi cậu, - ông Pavel Petrovich mở lời, đôi môi ông run run, - theo cậu hiểu thì các từ “đồ tồi” và “quý tộc” đều có nghĩa như nhau sau?
- Cháu nói “quý tộc quèn”, - Bazarov vừa nói, vừa uể oải nhấm nháp một ngụm trà.
- Vâng, đúng thế. Nhưng tôi cho rằng ý kiến của cậu về các nhà quý tộc, cũng như về các quý tộc quèn, cũng chỉ là một mà thôi. Tôi thấy có bổn phận phải tuyên bố với cậu là tôi không tán thành ý kiến đó. Tôi dám nói rằng mọi người đều biết tôi là một con người có khuynh hướng tự do và yêu chuộng tiến bộ. Nhưng chính vì vậy tôi quý trọng các nhà quý tộc, các nhà quý tộc chân chính. Thưa quý ngài, quý ngài hãy nhớ tới, (nghe những lời nói này Bazarov mới ngước mắt lên nhìn ông Pavel Petrovich), thưa quý ngài, quý ngài hãy nhớ tới, - ông nhắc lại một cách đay nghiến, - những nhà quý tộc Anh. Họ không nhân nhượng một tí quyền nào của mình, và vì vậy họ tôn trọng các quyền của người khác. Họ đòi hỏi phải thi hành mọi nghĩa vụ đối với họ, và vì vậy chính họ cũng tự mình thi hành các nghĩa vụ của mình. Giai cấp quý tộc đã đem lại tự do cho nước Anh và đã duy trì được nước Anh.
- Chúng cháu đã được nghe bài hát đó nhiều lần rồi, - Bazarov bác lại, - nhưng khi nói như vậy bác định chứng minh điều gì?
- Thưa quý ngài, với cáy này tôi muốn chứng minh rằng (khi giận dữ, ông Pavel Petrovich thường cố ý nói “cáy này” với lại “cáy kia” mặc dù ông thừa biết rằng ngữ pháp không cho phép nói như vậy. Trong cái thói dở hơi này người ta thấy có tàn dư của lối văn truyền miệng thời Alekxandr Đại đế 3. Thời bấy giờ, khi nói tiếng mẹ đẻ, trong một vài trường hợp, những người có thần thế, người thì nói “cáy này” người lại nói “cáy nầy”. Họ tự bảo rằng: chúng ta là những người Nga chính cống, đồng thời lại là những quý tộc, chúng ta được phép coi thường các quy tắc của học trò), - với cáy này tôi muốn chứng minh rằng: nếu không có ý thức tự tôn, nếu không coi trọng chính bản thân mình, - và đây là những tình cảm phát triển phong phú trong con người nhà quý tộc, - thì không thể nào có bất kỳ một nền móng vững chắc nào cho... cho cái
bien public... cho cái tòa nhà xã hội được. Thưa quý ngài, nhân cách, - đó chính là điều chủ yếu; nhân cách của con người phải vững như bàn thạch bởi vì mọi cái đều được xây dựng trên đó. Tỷ dụ như tôi rất biết rằng các vị cho những thói quen, cách ăn mặc, rút cục là sự tề chỉnh của tôi, là những cái gì buồn cười, nhưng tất cả những cái đó lại là bắt nguồn từ ý thức tự trọng, từ nhận thức về bổn phận, thưa vâng, thưa vâng, từ bổn phận. Tuy tôi sống nơi thôn quê, nơi xa xôi hẻo lánh, nhưng tôi vẫn không lơ là bản thân, tôi vẫn tôn trọng con người trong chính bản thân tôi.
- Bác Pavel Petrovich, xin bác cho phép, - Bazarov nói, - bác tôn trọng bản thân, nhưng bác cứ khoanh tay ngồi nhìn, vậy thì có ích gì cho bien public được? Lẽ ra bác không cần gì phải tôn trọng mình, mà bác cứ làm đi đã.
Ông Pavel Petrovich tái mặt.
- Đấy lại hoàn toàn là vấn đề khác. Bây giờ tôi thấy chẳng có lý do gì phải giải thích cho cậu rõ tại sao tôi lại khoanh tay ngồi nhìn, như cậu đã nói. Tôi chỉ muốn thưa rằng: phong độ quý phái - đó là một nguyên tắc mà trong thời đại chúng ta, chỉ có những người vô đạo đức hay những kẻ đầu óc rỗng tuếch mới sống không theo những nguyên tắc nào cả mà thôi. Cháu Arkadi mới về thì ngày hôm sau tôi đã nói với nó như thế, và bây giờ tôi cũng xin nhắc lại với cậu như vậy. Có đúng thế không, chú Nikolai Petrovich?
Ông Nikolai Petrovich gật đầu.
- Nào là phong độ quý phái, nào là khuynh hướng tự do, nào là tiến bộ, nào là những nguyên tắc, - Bazarov bồi thêm, - thử nghĩ coi, biết bao nhiêu là những từ nước ngoài... và vô tích sự! Con người Nga chẳng cần gì đến những từ đó cả.
- Vậy theo cậu, con người Nga cần cái gì? Nghe cậu nói thì hình như chúng ta đứng ngoài nhân loại, đứng ngoài các quy luật của loài người. Tôi xin thưa rằng: cái lôgíc của lịch sử đòi hỏi là...
- Ta cần gì đến cái lôgíc ấy nhỉ? Không có cái lôgíc ấy ta vẫn có sao đâu.
- Sao lại thế được?
- Thì nó thế đấy. Cháu hy vọng là khi bác đói, bác cũng chẳng cần gì có lôgíc mới bỏ được miếng bánh mì vào mồm. Chúng ta có cần gì đến những thứ trừu tượng ấy đâu nào!
Ông Pavel Petrovich phẩy cả hai tay.
- Cậu nói thế thì tôi chẳng hiểu nổi cậu. Cậu xúc phạm tới nhân dân Nga. Tôi không hiểu tại sao lại có thể không thừa nhận nguyên tắc, không thừa nhận quy tắc? Cậu hành động căn cứ vào cái gì?
- Bác ạ, cháu đã nói với bác là chúng cháu không thừa nhận các quyền uy, - Arkadi xen lời.- Chúng cháu hành động theo cái mà chúng cháu thừa nhận là có ích, - Bazarov nói. - Trong lúc này, cái có ích nhất là phủ định và chúng cháu đang phủ định.- Tất cả?
- Tất.
- Thế nào? Chẳng những nghệ thuật, thơ ca... mà cả... nói ra thì thật đáng sợ đấy... 4
- Tất, - Bazarov nói với một vẻ điềm nhiên không sao diễn tả nổi.
Ông Pavel Petrovich nhìn chàng chằm chằm. Chuyện đó quả thật ông không ngờ tới, còn Arkadi thì thậm chí đỏ mặt lên vì hài lòng.
- Tuy nhiên, xin cậu cho phép hỏi, - ông Nikolai Petrovich cất tiếng. - Cậu phủ định tất cả, hay nói chính xác hơn, là cậu phá hủy hết thảy... Bởi vì ta còn phải xây dựng nữa chứ.
- Đấy lại không phải là công việc của bọn cháu... Trước tiên hãy dọn sạch chỗ đã.
- Tình trạng hiện nay của nhân dân đang đòi hỏi như vậy, - Arkadi đế thêm với vẻ quan trọng, - chúng ta phải thi hành những đòi hỏi đó, chúng ta không có quyền chìm đắm trong việc thỏa mãn cái ích kỷ cá nhân.
Dường như Bazarov không thích câu nói cuối cùng đó, thấy nó có hơi hướng triết lý, nghĩa là có chiều hướng lãng mạn, bởi lẽ cả triết học cũng bị Bazarov gọi là lãng mạn nốt. Nhưng chàng thấy không cần thiết phải cải chính cho cậu học trò còn non trẻ của mình.
- Không, không! - ông Pavel Petrovich thốt lên với một khí thế đột ngột, - thưa các vị, tôi không thể tin rằng các vị hiểu đúng được nhân dân Nga, rằng các vị đại diện cho những nhu cầu, những nguyện vọng của nhân dân Nga! Không, nhân dân Nga không phải như các vị tưởng tượng đâu. Nhân dân Nga sùng kính di sản và truyền thống, họ có thái độ gia trưởng, họ không thể sống mà không có lòng tin!...
- Cháu sẽ không tranh cãi gì về điểm đó cả, - Bazarov ngắt lời, - thậm chí cháu sẵn sàng đồng ý rằng: về điểm đó bác đúng.
- Nếu như tôi đúng thì...- Nhưng dù sao điểm đó vẫn không chứng minh được cái gì hết.
- Đúng là nó chẳng chứng minh được cái gì cả, - Arkadi nhắc lại với thái độ vững tin của người đánh cờ lão luyện thấy trước được một nước cờ có vẻ lợi hại của đối phương, do đó không lúng túng chút nào.
- Sao lại không chứng minh được cái gì? - ông Pavel Petrovich sửng sốt lúng búng. - Vậy là, các cậu đi ngược lại nhân dân nước mình sao?
- Dù có thế thì cũng làm sao? - Bazarov kêu lên. - Khi có sấm nổ thì nhân dân cho đó là đấng tiên tri Ilia đang rong ruổi cỗ xe ngựa trên khắp bầu trời. Vậy thì thế nào? Cháu phải đồng ý với nhân dân chăng? Vả chăng, nhân dân là Nga, thì bản thân cháu chẳng phải là Nga sao?
- Không, sau tất cả những điều cậu nói ra ở đây, thì cậu không phải là Nga nữa rồi! Tôi không sao có thể thừa nhận cậu là Nga nữa.
- Ông nội cháu đã cày cấy đất đai này, - Bazarov đáp với vẻ tự hào ngạo mạn. - Bác thử hỏi bất kỳ một người nông dân nào của bác xem họ thích thừa nhận ai, nhận bác hay nhận cháu, là đồng bào của họ. Đến nói chuyện với họ bác cũng chẳng biết cách nữa là.
- Nhưng cậu vừa nói chuyện với họ lại vừa khinh bỉ họ.
- Thì đã sao, nếu như họ đáng bị khinh bỉ! Bác bài xích khuynh hướng của cháu, nhưng ai bảo với bác rằng trong con người cháu khuynh hướng đó chỉ là ngẫu nhiên chứ không phải bắt nguồn từ chính tinh thần nhân dân, một tinh thần mà bác luôn nhân danh nó để bênh vực?
- Chứ còn gì nữa! Làm như là những anh hư vô chủ nghĩa cần thiết lắm hay sao ấy.
- Cần hay không cần, chuyện đó không phải chúng ta quyết định mà được. Nên nhớ rằng, ngay cả bác cũng tự cho mình không phải là đồ vô dụng đấy.
- Thôi, thưa các vị, xin các vị chớ nói đến cá nhân! - ông Nikolai Petrovich kêu lên và nhổm dậy.
Ông Pavel Petrovich mỉm cười, đặt một tay lên vai ông em, buộc ông ta phải ngồi xuống như cũ.
- Chú cứ yên chí, - ông nói. - Anh sẽ không mất bình tĩnh đâu, đó chính là nhờ ở cái ý thức về phẩm giá mà ông... ông bác sĩ đây đang giễu cợt một cách tàn nhẫn. Xin phép cậu, - ông lại quay về phía Bazarov nói tiếp, - có lẽ cậu tưởng rằng học thuyết của cậu là mới mẻ lắm sao? Đó chỉ là cậu uổng công tưởng tượng ra thôi. Cái chủ nghĩa duy vật mà cậu đang truyền bá nhiều lần xuất hiện rồi, và lần nào nó cũng đều tỏ ra là không xác đáng...- Lại một từ nước ngoài rồi! - Bazarov ngắt lời. Chàng đã bắt đầu giận dữ, gương mặt chàng đã chuyển sang một màu gì đó giống như màu đồng thô bạo. - Một là, chúng cháu không hề truyền bá gì hết, không quen đi làm chuyện đó...
- Vậy các cậu làm cái gì?
- Chúng cháu làm thế này này. Trước hết là trong thời gian mới đây thôi, chúng cháu nêu lên rằng các quan lại của chúng ta ăn của đút, rằng nước ta chẳng có đường sá, chẳng có thương mại, chẳng có tòa án cho đúng đắn...
- Vâng, phải rồi, phải rồi, các cậu là những người đi tố giác, - hình như danh từ người ta gọi như thế thì phải. Tôi cũng tán thành nhiều điều tố giác của các cậu, nhưng...
- Nhưng sau chúng cháu thấy ra được rằng, nếu chỉ bàn tán, nếu chỉ bàn hươu tán vượn về những ung nhọt của chúng ta thì cũng chẳng ích gì, sẽ chỉ đi đến chỗ nhàm tai và khống luận mà thôi. Chúng cháu thấy rằng ngay cả những người thông minh tài trí chúng ta, tuy được mệnh danh là những người tiên tiến và những nhà tố cáo, thì cũng chẳng đi đến đâu, và thấy rằng chúng ta chỉ làm chuyện nhảm nhí, chúng ta chỉ bàn luận về một thứ nghệ thuật nào đó, về trí sáng tạo không tự biết, về chế độ đại nghị, về chế độ trạng sư và về gì gì nữa có quỷ biết được, trong khi vấn đề lại là làm sao có cơm ăn áo mặc, khi một tình trạng mê tín cực kỳ hủ lậu đang bóp nghẹt chúng ta, khi tất cả các công ty cổ phần của chúng ta đều phá sản chỉ vì một nguyên nhân duy nhất là chúng ta thiếu những người thật thà, khi chính bản thân cái quyền tự do mà chính phủ đang chăm lo cũng sẽ vị tất có lợi gì cho chúng ta, bởi vì người nông dân của chúng ta vẫn cứ vui lòng tự mình ăn cắp của chính bản thân mình, để rồi say sưa chè chén trong các quán rượu.
- Vậy đó, - ông Pavel Petrovich ngắt lời, - vậy là các cậu tin chắc vào tất cả những chuyện ấy và rồi các cậu quyết tâm không bắt tay vào một việc gì cho nghiêm chỉnh cả.
- Và chúng cháu quyết tâm không bắt tay vào một việc gì hết, - Bazarov cau có nhắc lại. Và chàng đột nhiên cảm thấy mình lại bực với mình, tại sao lại phải kể lể tràng giang đại hải trước mặt cái ông quý tộc này làm gì.
- Rồi chỉ chửi rủa thôi?
- Và chửi rủa.
- Và cái đó là chủ nghĩa hư vô?
- Và cái đó là chủ nghĩa hư vô, - Bazarov lại nhắc lại, lần này với một vẻ đặc biệt xấc xược.
Ông Pavel Petrovich hơi nheo mắt lại.
- Té ra là như vậy! - ông nói với một giọng điềm tĩnh đến kỳ lạ. - Chủ nghĩa hư vô phải cứu khốn phò nguy cho tất thảy mọi người, và các cậu, các cậu phải là những người cứu khổ cứu nạn và những người anh hùng của chúng tôi. Thế đó. Vậy thì tại sao các cậu lại đi thóa mạ người khác, chí ít là những người cùng làm việc tố cáo như các cậu? Chẳng phải là các cậu cùng bàn hươu tán vượn như mọi người khác sao?
- Cái tội nào, chứ cái tội ấy thì chúng cháu lại không mắc, - Bazarov nói qua hai hàm răng siết chặt.
- Vậy thì thế nào? Các cậu hành động chăng? Các cậu định hành động chứ?
Bazarov không hé răng trả lời. Ông Pavel Petrovich bỗng dưng thấy rùng mình, nhưng lập tức tự chủ được.
- Hừm!... Hành động, phá phách... - ông nói tiếp. - Nhưng làm sao lại phá phách, trong khi còn chưa biết tại sao phải phá phách?
- Chúng cháu phá phách, bởi vì chúng cháu là một sức mạnh, - Arkadi nhận xét.
Ông Pavel Petrovich đưa mắt nhìn cháu và cười khẩy.
- Vâng, là một sức mạnh, thế cho nên nó không cần phải trình báo gì hết, - Arkadi nói, đoạn dướn thẳng người lên.
- Thật vô phúc! - Ông Pavel Petrovich hét toáng lên. Ông đã không sao kìm mình lâu hơn được nữa, - anh hãy thử nghĩ xem anh làm được cái thá gì ở nước Nga này bằng cái câu châm ngôn thấp kém ấy của anh! Không đâu, cái đó làm cho cả thiên thần cũng không sao chịu đựng nổi nữa! Sức mạnh! Ngay một tên Kalmưs 5 man rợ hay một tên Mông Cổ cũng có sức mạnh, mà chúng ta cần gì đến sức mạnh? Chúng ta quý trọng nền văn minh kia, vâng, vâng, thưa quý ngài, chúng ta quý trọng những thành quả của nền văn minh ấy. Các cậu chớ nói với tôi rằng những thành quả ấy là không đáng kể: một anh họa sĩ bôi bác, un harbouilleur, một anh đệm nhạc nhảy mà mỗi tối được người ta cho có năm xu, ấy thế mà họ vẫn có ích hơn cả các cậu, bởi lẽ họ là những người đại diện cho văn minh chứ không phải đại diện cho sức mạnh Mông Cổ phũ phàng! Các cậu tự cho mình là những người tiên tiến, nhưng các cậu chỉ ngồi ru rú trong chiếc lều của người Kalmưs mà thôi! Sức mạnh là thế đấy! Và thưa các ngài hùng mạnh, cuối cùng, xin các ngài chớ cho rằng các ngài chỉ vẻn vẹn có bốn người rưỡi, còn những người khác có tới hàng triệu, họ sẽ không cho phép các ngài chà đạp lên những tín ngưỡng cực kỳ thiêng liêng của họ, họ sẽ đè bẹp các ngài - Muốn đè bẹp thì xin cứ việc, - Bazarov nói. - Có điều là chưa chắc mèo nào cắn mỉu nào. Chúng cháu không đến nỗi ít như bác tưởng đâu.- Thế nào? Có thật là các cậu tưởng mình có thể địch nổi được cả toàn thể dân tộc không đấy?
- Bác biết rằng Maxcơva đã từng bị cháy rụi chỉ vì một cây nến nhỏ, - Bazarov đáp.
- Thế đấy, thế đấy. Mới đầu là một thói kiêu ngạo hầu như của quỷ dữ, sau đó là đi nhạo báng người ta. Đấy, đấy là cái gì thanh niên đang say mê, đấy là cái gì đang chinh phục những trái tim non nớt của những thằng bé con! Đấy, cậu thử nhìn xem, một trong những đứa bé con ấy đang ngồi bên cạnh cậu, hầu như nó mê mẩn vì cậu, cậu hãy ngắm thử xem. (Arkadi quay ngoắt mặt đi và nhăn nhó). Và cái bệnh truyền nhiễm đó đã lan tràn rộng rãi rồi. Người ta kể chuyện với tôi rằng các nhà họa sĩ của chúng ta ở Rome đã không thèm đặt chân tới Vatican nữa 6. Họ coi Raffaello 7 chẳng khác nào một kẻ ngu ngốc, bởi lẽ họ bảo đó chỉ là một quyền uy. Nhưng chính họ thì họ lại bất lực và vô hiệu đến mức ghê tởm. Trí tưởng tượng của chính họ bất quá cũng không hơn được Cô gái bên đài phun nước! Và họ đã vẽ cô gái cực dở. Nhưng theo cậu thì họ lại là những kẻ cừ khôi, có đúng thế không?
- Theo cháu, - Bazarov bác lại, - cả Raffaello cũng không đáng một đồng xu, còn họ thì họ chẳng hơn gì Raffaello.
- Hoan hô, hoan hô! Arkadi, nghe đó... các thanh niên tân tiến bây giờ phải ăn nói như thế đấy! Thử nghĩ coi, như thế thì làm gì mà họ chẳng đi theo các cậu! Trước đây thanh niên phải học tập. Trước đây nếu không muốn mang tiếng là những kẻ vô học, thì họ buộc phải khổ công học tập. Còn bây giờ, họ chỉ cần tuyên bố mọi thứ trên đời đều là nhảm nhí hết! - Thế là xong. Thế là mọi thanh niên đều mừng rơn. Mà thật vậy, nếu trước kia họ chỉ là những kẻ bàn hươu tán vượn, thì bây giờ bỗng nhiên họ trở thành những người theo chủ nghĩa hư vô.
- Và chính bác cũng đã phản lại cái ý thức tự tôn mà bác ca ngợi rồi đấy, - Bazarov nhận xét với vẻ phớt tỉnh, trong khi đó thì Arkadi đỏ mặt tía tai và đôi mắt long lên sòng sọc. - Cuộc tranh luận của chúng ta đã đi quá xa rồi... Có lẽ nên chấm dứt thì tốt hơn. - Và chàng đứng dậy nói thêm: - Còn bao giờ bác có thể nêu ra cho cháu thấy một quyết định nào về cuộc sống của chúng ta hiện nay, dù là cuộc sống gia đình hay xã hội, mà quyết định ấy không bị phủ định một cách hoàn toàn và thẳng tay, thì lúc bấy giờ cháu sẽ xin sẵn sàng đồng ý với bác.
- Tôi sẽ nêu cho cậu thấy hàng triệu những quyết định như thế, - ông Pavel Petrovich kêu lên, - hàng triệu cái! Tỷ dụ như việc lập ra công xã chẳng hạn.
- À, còn về việc lập công xã, - chàng nói, - bác nên đi bàn với ông em của bác thì tốt hơn. Có lẽ ông em của bác hiện đang thật sự nếm mùi thế nào là công xã, thế nào là chế độ luân phiên bảo lãnh, thế nào là sự tỉnh táo trong công việc và vân vân rồi đấy.
- Gia đình, rút cuộc là vấn đề gia đình kia, như mọi người nông dân của chúng ta hiện đang có ấy! - ông Pavel Petrovich hét to lên.
- Cả vấn đề đó nữa, cháu cho rằng chính các bác cũng chẳng nên đi sâu vào chi tiết nữa thì tốt hơn. Chắc các bác cũng có nghe nói tình hình bố chồng ngủ với nàng dâu rồi chứ? Bác Pavel Petrovich ạ, bác hãy nghe cháu, bác hãy để ra một kỳ hạn để nghiên cứu trong khoảng hai ngày, chứ còn ngay một lúc thì vị tất bác đã có thể tìm thấy được điều gì hay ho đâu. Bác hãy xét qua các tầng lớp xã hội của chúng ta, hãy suy nghĩ cẩn thận về từng tầng lớp một đi, còn trong khi đó cháu với Arkadi sẽ...
- Sẽ đi nhạo báng hết thảy, - ông Pavel Petrovich tiếp lời.
- Không, sẽ đi mổ ếch. Ta đi thôi, Arkadi. Xin chào các bác!
Hai người bạn bước ra. Chỉ còn hai anh em ngồi lại với nhau, và thoạt đầu hai người chỉ đưa mắt nhìn nhau.
- Đấy, - cuối cùng ông Pavel Petrovich cất tiếng, - chú xem, thanh niên bây giờ là như thế đấy! Những người kế thừa của chúng ta là như thế đấy!
- Những người kế thừa, - ông Nikolai Petrovich nhắc lại với một tiếng thở dài chán ngán. Suốt cuộc tranh luận, ông cứ như ngồi trên đống than hồng, thỉnh thoảng lại lén đưa mắt nhìn Arkadi với vẻ đau đớn. - Anh ạ, anh có biết em nhớ lại chuyện gì không? Hồi mẹ còn sống, có lần em đã từng xích mích với cụ, cụ cứ la hét, không chịu nghe em nói... Cuối cùng em mới bảo cụ rằng: mẹ không thể hiểu được con đâu, con với mẹ thuộc hai thế hệ khác nhau. Cụ bực mình ghê gớm lắm, nhưng em nghĩ: làm thế nào được nhỉ? Viên thuốc đắng thật, nhưng cụ cứ phải nuốt thôi. Bây giờ lại đến lượt chúng ta rồi đấy, và bọn trẻ kế thừa chúng ta có thể bảo chúng ta: các cụ có thuộc thế hệ chúng tôi nữa đâu, các cụ hãy nuốt viên thuốc đó đi.
- Chú khoan dung và nhún nhường quá rồi đấy, - ông Pavel Petrovich bác bỏ, - còn tôi, trái lại, tôi chắc là tôi với chú đúng đắn hơn những ông nhãi kia nhiều. Mặc dù có lẽ là cách nói năng của chúng ta có phần cũ kỹ, vieilli, và chúng ta không có lòng tự tin một cách quá táo bạo như thế... Mà sao thanh niên bây giờ họ kênh kiệu đến như vậy! Cứ thử hỏi một đứa nào đó: cậu thích uống rượu vang gì, vang đỏ hay vang trắng? Thế là nó sẽ trả lời ngay bằng một giọng trầm: “Tôi có thói quen thích uống rượu vang đỏ hơn!”, và trả lời với một vẻ mặt quan trọng tưởng chừng như trong giây phút đó tất cả cái vũ trụ này đều chỉ nhìn vào một mình nó vậy...
- Các ông có cần trà nữa không ạ? - Pheneska thò đầu vào cửa mà hỏi. Thấy trong phòng khách còn oang oang tiếng tranh luận, cô ta không dám bước vào.
- Không, em có thể cho mang ấm xamovar đi được rồi đấy, - ông Nikolai Petrovich đáp, đoạn đứng dậy đi về phía cô ta. Ông Pavel Petrovich bèn giật giọng chào ông em một tiếng: bon soir rồi trở về thư phòng.
Chú thích:
1 Cuốn Stoff und Kraft (“Vật chất và lực lượng”): tác phẩm của nhà sinh lý học, nhà duy vật tầm thường Đức Friedrich Carl Christian Buchner (1824 - 1899), bản dịch tiếng Nga xuất bản năm 1860.
2 Viên chức bậc ba - một phẩm hàm ngạch dân sự ở người Nga trước Cách mạng tháng Mười.
3 Ở đây muốn nói đến thời gian trị vì của hoàng đế Nga Alekxandr I (1801 - 1825), lúc này giới quý tộc Nga chuộng dùng tiếng Pháp và xem thường việc nói tiếng Nga đúng luật.
4 Ở đây ngụ ý tới sự phủ nhận của Bazarov với tất cả “những thể chế chuẩn mực đã được thừa nhận trong đời sống loài người” có nghĩa là tất cả chế độ chính trị, xã hội hiện hành, và những quan niệm tôn giáo v.v...
5 Kalmưs - một dân tộc thuộc nước Cộng hòa Tự trị Kalmưs. Tiếng Kalmưs thuộc nhóm tiếng Mông Cổ.
6 Vào những năm 50 - 60 của thế kỷ XIX, trong hội họa Nga xuất hiện một xu hướng hiện thực mới có tên gọi là nhóm triển lãm lưu động. Các họa sĩ trẻ không chấp nhận trường phái hội họa kinh viện chủ nghĩa cổ truyền, đòi hỏi phải mô phỏng những khuôn mẫu hội họa kinh điển, chủ yếu là của nền nghệ thuật Italia, họ đấu tranh cho việc xây dựng một nền nghệ thuật độc đáo Nga mang tính tư tưởng dân chủ, tiến bộ. Nguyên do chính phần nhiều là do sự lãng quên của các họa sĩ Nga đối với nền nghệ thuật Vatican. Vatican - thành phố - nhà nước nằm trong Rome, thủ đô của Italia. Trung tâm của Giáo hội La Mã, tòa chính của các giáo hoàng La Mã.
7 Raffaello Santi (1483 - 1520): họa sĩ lỗi lạc Italia, những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là những bức tranh vẽ về Madona (Madona - tiếng Italia có nghĩa là Đức Mẹ).