← Quay lại trang sách

Chương 16

Khu dinh cơ của bà Anna nằm trên một ngọn đồi dốc và quang quẻ. Cách đó không xa là một nhà thờ bằng đá màu vàng, nóc màu xanh lá cây, ở cửa chính có hàng cột trắng và có một bức họa al fresco 1 miêu tả “Chúa Christ phục sinh”, được vẽ theo “kiểu Italia”. Trên bức họa này đặc biệt đáng chú ý là một chiến binh da ngăm đen đội mũ trụ nằm sóng sượt ở ngay hàng đầu và được vờn vẽ bằng những nét tròn trĩnh. Sau nhà thờ, người ta thấy một thôn xóm kéo thành hai hàng dài với những ống khói thấp thoáng đó đây trên những mái nhà tranh. Ngôi nhà quý tộc cũng được xây cùng một kiểu với nhà thờ, nghĩa là kiểu mà chúng ta thường được biết dưới cái tên “thời Alekxandr Đại đế”. Ngôi nhà ấy cũng được sơn màu vàng, mái cũng sơn màu xanh lá cây, cũng có một hàng cột trắng, và có mang biểu trưng gia tộc trên mi nhà. Cả hai công trình xây dựng này đều do ông kiến trúc sư của tỉnh cất nên với sự chấp nhận của ông Odintxov hồi còn sống, và ông đã không chịu để cho xây bất kỳ một cái gì mà theo lời ông là những lối mới rỗng tuếch và tùy tiện. Dẫn tới gần nhà, là một con đường mà cả hai bên đều có những rặng cây sầm u của một khu vườn xưa cũ, sau đó là một lối đi hai bên trồng những cây thông

Tại phòng ngoài, ra đón hai chàng là hai người hầu tầm vóc cao lớn mặc áo dấu, và sau đó một người lập tức chạy vào báo với người quản gia. Bác quản gia, một người to béo, mặc áo đuôi tôm đen, đã ra mắt ngay tức khắc, rồi đưa khách đi theo một cầu thang gác trải thảm, mời vào một căn buồng đặc biệt kê sẵn hai chiếc giường với đủ mọi đồ dùng, tiện nghi cần thiết. Trong nhà, rõ ràng đang ngự trị một cảnh trật tự ngăn nắp: chỗ nào cũng sạch sẽ, đâu đâu cũng thoang thoảng một mùi thơm, hệt như trong phòng khách các bộ thượng thư vậy.

- Bà Anna xin được tiếp các quý ông sau nửa tiếng nữa, - người quản gia vào trình như vậy, - trong khi chờ đợi, các quý ông có điều gì phán bảo không ạ?

- Không có điều gì cả đâu, bác quản gia cực kỳ kính mến ạ, - Bazarov đáp, - có chăng là xin bác cho mang đến một ly rượu vodka.

- Xin tuân lệnh, - người quản gia nói, không khỏi có chút ngỡ ngàng, đoạn cáo lui, khiến đôi ủng kêu cót két.

- Grăng giăngrơ khiếp chưa! - Bazarov nhận xét. - Theo quý ông thì hình như gọi grăng giăngrơ như vậy là đúng chứ gì? Một bà quận chúa, thế là đủ nghĩa lắm rồi.

- Bà quận chúa gì mà chưa chi đã mời những nhà quý phái sừng sỏ như tớ với cậu đến thăm như thế này được, - Arkadi cãi lại.

- Nhất là tớ, một anh y sĩ tương lai, con một ông y sĩ và cháu một ông bõ nhà thờ... Chắc cậu biết ông nội tớ là bõ nhà thờ rồi chứ?

- Giống như Xperanxki 2 vậy, - sau một lát im lặng, Bazarov bĩu môi nói thêm. - Nhưng dù sao bà ấy cũng tự nuông chiều mình quá đấy. Ôi, sao cái bà quý tộc này lại tự nuông chiều mình đến như vậy nhỉ? Và liệu ta có phải thắng áo đuôi tôm vào không đây?

Arkadi chỉ nhún một bên vai... song ngay cả chàng cũng đã cảm thấy mình có đôi chút lúng túng.

Nửa tiếng sau Bazarov cùng Arkadi bước xuống phòng khách. Đó là một căn phòng rộng, cao, được bày biện khá xa hoa, nhưng không có một ý vị thẩm mỹ gì đặc biệt cả. Những đồ đạc nặng nề mà đắt tiền đã được kê theo một trật tự cầu kỳ như ta thường thấy, dọc theo những bức tường dán giấy màu nâu với những họa tiết trang kim. Những đồ đạc này là do ông Odintxov hồi sinh thời đã đặt mua tại Maxcơva qua tay một người buôn rượu nho, vừa là bạn, vừa là người mãi biện của mình. Bên trên chiếc đivăng, ở quãng giữa có treo bức chân dung một người đàn ông tóc vàng béo ị, - và ta có cảm giác rằng ông này đang nhìn những khách khứa với một vẻ chẳng thân thiện gì. “Chắc hẳn là ông ấy đấy, - Bazarov ghé tai khẽ bảo Arkadi, đoạn nhăn mũi nói thêm, - hay là ta chuồn thôi?”

Nhưng đúng lúc đó bà chủ đã bước vào. Bà ta mặc một chiếc xiêm lụa baregiơ mỏng; mái tóc mượt chải lật ra đằng sau tai khiến khuôn mặt sáng sủa và xinh tươi của bà hệt như khuôn mặt một thiếu nữ.

- Cám ơn các vị đã giữ đúng lời hứa, - bà ta mở lời, - xin các vị ở lại chơi nhà tôi; quả tình là nơi đây cũng không đến nỗi tồi tàn. Tôi sẽ giới thiệu các vị với cô em gái tôi, cô ấy chơi đàn piano nghe cũng được. Mơxiơ Bazarov chắc chẳng hứng thú gì, nhưng

mơxiơ Kirxanov thì hình như lại thích âm nhạc. Ngoài cô em gái, cùng ở với tôi còn có một bà dì, ngoài ra nữa là một ông hàng xóm thỉnh thoảng sang đánh bài: tất cả hội của chúng tôi chỉ có thế thôi. Bây giờ ta ngồi nhỉ.

Bà Odintxova đọc toàn bộ cái bài diễn văn ngắn ấy với một giọng đặc biệt rành rọt, tưởng chừng như bà đã học thuộc lòng. Sau đó bà ta hỏi chuyện Arkadi. Té ra cụ bà thân sinh ra bà ta hồi xưa cũng có quen biết với mẹ Arkadi và thậm chí còn là người bạn tâm sự của mẹ Arkadi trong mối lương duyên với ông Nikolai Petrovich. Thế là Arkadi bèn sôi nổi nói chuyện về người đã quá cố, còn Bazarov trong khi đó tranh thủ mở xem mấy tập tranh ảnh. “Sao mình đâm ra hiền khô thế này nhỉ”, - chàng nghĩ thầm trong bụng.

Một con chó giống borzoi 3 rất đẹp, đeo vòng cổ chó màu xanh lơ chạy vào phòng khách, móng chân cào sào sạo lên sàn nhà, và theo sau nó là một thiếu nữ chừng mười tám tuổi, tóc đen, da ngăm ngăm, mặt có hơi tròn nhưng dễ thương, đôi mắt màu sẫm và không lấy gì làm to. Cô ta ôm một lẵng đựng đầy hoa.

- Giới thiệu với các anh, em Katia của tôi đấy, - bà Odintxova hất đầu chỉ Katia, nói.

Katia nhẹ nhàng ghé ngồi xuống cạnh chị mà lựa chọn, xếp đặt những cành hoa. Con chó borzoi tên là Phiphi vẫy đuôi, tiến lại chỗ từng vị khách mà gí chiếc mũi lạnh của nó vào tay từng người.

- Một mình em hái cả chỗ hoa này đấy à? - bà Odintxova hỏi.

- Mình em đấy ạ, - Katia đáp.

- Thế dì có xuống dùng trà không?

- Có ạ.

Khi Katia cất tiếng, cô ta thường mỉm cười rất có duyên, thẹn thò mà cởi mở, và thường ngước mắt nhìn lên với một vẻ nghiêm nghị rất ngộ nghĩnh. Mọi nét nơi cô hãy còn rất trẻ trung, non nớt: từ giọng nói cho tới những lông tơ trên khắp khuôn mặt, từ những bàn tay hồng hào với những đốm trăng trắng trong lòng bàn tay cho đến đôi vai hơi so lại... Cô ta luôn luôn đỏ mặt và thường hay thở để lấy hơi một cách lẹ làng.

Bà Odintxova quay về phía Bazarov.

- Anh Evgheni, anh có nhã ý ngồi xem tranh ảnh, - bà ta mở lời. - Nhưng việc đó chẳng thú vị gì đối với anh đâu. Tốt hơn là anh hãy lại ngồi gần chúng tôi và chúng ta cùng nhau tranh luận một vấn đề gì đi.

Bazarov ngồi lại gần.

- Chị cho phép tranh luận vấn đề gì nào? - chàng nói.

- Bất kỳ vấn đề gì anh muốn. Báo để anh biết trước rằng tôi là một đối thủ tranh luận đáng gờm đấy.

- Chị ấy ư?- Phải, tôi ấy. Hình như anh lấy làm lạ thì phải. Tại sao?

- Bởi vì theo chỗ tôi xét đoán, tính chị điềm tĩnh và lạnh lùng. Mà muốn tranh luận thì phải có sự say mê kia.

- Làm sao anh hiểu biết tôi nhanh đến thế được nhỉ? Còn tôi thì, một là, tính tôi hay sốt ruột và thích cái gì thì muốn làm bằng được cái đó, anh cứ hỏi Katia thì rõ, và hai là, tôi rất dễ say mê đấy.

Bazarov đưa mắt nhìn bà Anna.

- Có thể là chị biết rõ hơn. Vậy nếu muốn tranh luận cũng xin tùy chị. Tôi vừa xem những cảnh của xứ Thụy Sĩ Saxon trong tập tranh ảnh của chị, nhưng chị nhận xét rằng điều đó không thể gây cho tôi một hứng thú gì. Khi chị nói như vậy, chị cho rằng tôi không ưa thích mỹ thuật, - và quả tình là tôi có thế thật đấy. Thế nhưng những cảnh đó lại có thể khiến tôi lưu tâm về mặt địa chất, về sự hình thành những dãy núi chẳng hạn.

- Xin lỗi anh nhớ, nếu là nhà địa chất thì anh phải tìm đọc một cuốn sách, một quyển chuyên luận nào, chứ không phải là xem một bức tranh thế đâu.

- Một bức tranh có thể cho tôi biết bằng trực quan những gì được trình bày trong cả hàng chục trang sách.

Bà Anna nín lặng.

- Vậy là anh chẳng ưa thích mỹ thuật một mảy may nào hay sao? - nàng nói, tựa khuỷu tay lên bàn và do đó càng nghiêng mặt lại gần Bazarov hơn. - Làm sao anh có thể bỏ qua mỹ thuật được nhỉ?

- Nhưng tôi xin hỏi lại chị, mỹ thuật cần để làm gì?

- Thì ít nhất cũng là để biết cách tìm hiểu và nghiên cứu con người.

Bazarov cười khẩy.

- Một là, để làm việc đó thì đã có kinh nghiệm ở đời; và hai nữa, xin thưa với chị rằng: không việc gì phải mất công nghiên cứu từng cá tính riêng biệt. Tất cả mọi người đều giống nhau cả về thể xác cũng như tâm hồn. Người ta ai cũng có bộ não, lá lách, tim, phổi như nhau cả; và những cái gọi là đức tính thì cũng đều như nhau trong tất cả mọi người; còn những biến dạng nho nhỏ thì chẳng kể làm gì. Chỉ cần có một mẫu người là có thể xét đoán được về tất cả mọi người khác. Con người ta cũng giống như cây cối trong rừng vậy, và chẳng có nhà thực vật học nào lại đi nghiên cứu từng cây bạch dương một cả.

Katia đang nhẩn nha chọn những cành hoa xếp lại với nhau, ngỡ ngàng ngước mắt nhìn Bazarov, và khi bắt gặp cặp mắt tinh nhanh mà ngạo mạn của chàng thì mặt nàng bỗng bừng đỏ đến tận mang tai. Anna lắc đầu.

- Cây cối trong rừng à, - nàng nhắc lại. - Vậy thì, theo anh, giữa người dại với người khôn, giữa cái thiện với cái ác không có gì khác nhau sao?

- Không, có chứ, có khác nhau như giữa kẻ ốm và người khỏe vậy. Dù đều có phổi như nhau, nhưng phổi của người ho lao không ở trong tình trạng giống như của tôi và của chị. Chúng ta đã có thể biết được gần đúng vì đâu mà có những bệnh tật trong thân thể con người. Còn những bệnh tật về mặt đạo đức là do giáo dục tồi, do cả lô những thứ lăng nhăng được nhồi nhét vào đầu óc con người ngay từ thuở nhỏ, tóm lại là do tình trạng tệ lậu của xã hội. Hãy sửa xã hội đi thì sẽ không còn những bệnh tật nữa.

Bazarov đã nói tất cả những điều đó với một vẻ mặt dường như chính lúc bấy giờ chàng đang nghĩ thầm rằng: “Bà có tin hay không, cái đó đối với tôi cũng vẫn thế thôi!”. Chàng khoan thai đưa những ngón tay dài lên vuốt hai chòm ria ở hai bên má, còn đôi mắt chàng đảo nhìn các góc trong căn phòng.

- Và anh cho rằng, - bà Anna nói, - khi xã hội đã khỏi bệnh thì sẽ không còn người dại và người ác nữa sao?

- Chí ít là như vậy, nếu xã hội được tổ chức đúng đắn thì dù con người có dại hay khôn, ác hay thiện, cũng sẽ hoàn toàn như nhau cả thôi.

- Vâng, tôi hiểu, ai cũng đều có lá lách như nhau cả.

- Đúng thế đấy, thưa quý bà.

Bà Odintxova quay sang phía Arkadi:- Arkadi, vậy ý kiến anh thế nào?

- Tôi đồng ý với Evgheni, - chàng đáp

Katia gườm gườm nhìn chàng.

- Thưa các vị, các vị khiến tôi ngạc nhiên đấy, - bà Odintxova nói, - nhưng tôi sẽ còn bàn luận thêm nữa với các vị. Còn bây giờ, tôi nghe như bà dì đã đến dùng trà rồi, ta cũng phải thương hại cho đôi tai của cụ.

Dì của bà Anna, bà công tước N., là một bà gày gò, bé nhỏ, có bộ mặt quắt lại như một nắm đấm nhỏ, có đôi mắt nhìn trân trân khá dữ dội dưới mớ tóc độn trắng bạc. Bà bước vào, hơi nghiêng mình chào khách, rồi ngồi xuống một chiếc ghế bành nhung rộng - một chiếc ghế mà ngoài bà ra chẳng ai có quyền được ngồi vào. Katia đặt một tấm ghế dài thấp cho bà kê chân, nhưng bà lão không cám ơn, thậm chí cũng chẳng để mắt nhìn nàng, mà chỉ động đậy đôi tay dưới chiếc khăn san màu vàng che phủ hầu khắp thân hình hom hem của bà. Bà công tước thích màu vàng, cả những dải trên chiếc mũ bonnê của bà cũng một màu vàng tươi.

- Thưa dì, dì ngủ có được yên giấc không ạ? - bà Odintxova cất cao giọng, hỏi.

- Cái con chó kia lại vào đây rồi, - để đáp lời, bà lão chỉ làu bàu như vậy, rồi khi thấy con Phiphi ngập ngừng tiến hai bước về phía bà, thì bà kêu lên: - Ra, ra!Katia bèn gọi con Phiphi và mở cửa cho nó ra.

Con Phiphi vui sướng nhảy xổ ra ngoài, tưởng là sẽ được dắt đi chơi, nhưng bị ở ngoài một mình, nó bèn lấy chân cào cửa mà rít lên. Bà công tước nhăn nhó, Katia đã định bước ra...

- Tôi nghĩ là trà đã chuẩn bị xong rồi đấy nhỉ? - bà Odintxova nói. - Các vị, ta đi thôi. Thưa dì, mời dì đi xơi trà.

Bà công tước lẳng lặng cất mình rời ghế bành đứng dậy rồi bước ra khỏi phòng khách trước tiên. Mọi người đi theo bà vào phòng ăn. Một cậu bé đầy tớ mặc áo dấu lộc cộc kéo từ gầm bàn ra một chiếc ghế bành độn gối khắp xung quanh, một chiếc ghế cũng thiêng liêng như chiếc ghế trong phòng khách, và bà công tước ngồi vào đấy. Rót trà xong, Katia mang đến cho bà trước tiên một chén trà có mang biểu trưng gia tộc. Bà lão rót mật ong vào cốc trà (bà cho rằng uống trà với đường vừa là có tội, lại vừa đắt tiền, mặc dù bản thân bà chẳng chi bất kỳ một khoản nào, dù là một kôpếch), rồi đột nhiên bà hỏi với giọng khàn khàn:- Cong tước Ivan viết thư nói gì vậy?

Chẳng có ai đáp lời bà. Chẳng mấy chốc Bazarov và Arkadi đã đoán định được rằng, mặc dù mọi người đều kính cẩn đối với bà, nhưng không ai chú ý đến bà. “Phải giữ cụ ở đây cốt là để ra vẻ quan trọng thôi, bởi vì cụ bẩm sinh ra đã là công tước”, - Bazarov nghĩ thầm... Dùng trà xong, bà Anna mời khách ra ngoài đi dạo nhưng trời lại bắt đầu lún phún mưa, nên cả hội, trừ bà công tước, lại phải quay trở lại phòng khách. Ông hàng xóm ham đánh bài cũng đã đến. Ông ta tên gọi Porphiri Platonưts, người hơi đậm, tóc đã bạc nhiều, có đôi chân nhỏ ngắn nhưng rất cân đối, ông ta là người rất lễ độ và tính hay cười. Bà Anna càng nói chuyện với Bazarov nhiều hơn, hỏi xem chàng có muốn đấu trí theo kiểu xưa cũ bằng cách đánh bài prêphêranxơ không. Bazarov thuận lòng, bảo rằng mình cũng cần chuẩn bị trước để sắp tới đây đi nhậm chức y sĩ huyện.

- Anh coi chừng nhé, - Anna nhận xét, - tôi với bác Porphiri Platonưts sẽ đánh cho anh thua tơi bời ra đấy. Còn em Katia, - nàng nói thêm, - em đàn bài gì đó cho anh Arkadi nghe. Anh ấy thích âm nhạc, mà cả cánh này cũng được nghe luôn thể nữa.

Katia miễn cưỡng tiến lại gần chiếc piano, và Arkadi tuy có thích âm nhạc thật đấy, nhưng cũng đành miễn cưỡng bước theo nàng. Chàng có cảm tưởng là bà Odintxova đã tách chàng ra, - trong khi trong lòng chàng, như bất kỳ một chàng trai nào ở tuổi ấy, đã chất chứa một cảm giác mơ hồ mà khắc khoải nào đó, giống như một linh cảm của tình yêu. Katia mở nắp piano, rồi cũng chẳng nhìn vào Arkadi, nàng khẽ hỏi:- Anh thích nghe bài gì ạ?

- Bài cô thích, - Arkadi thản nhiên đáp.

- Anh thích loại nhạc nào hơn? - Katia hỏi lại, vẫn giữ nguyên tư thế cũ.

- Nhạc cổ điển, - Arkadi đáp cũng với giọng như thế.

- Anh có thích nhạc Mozart 4 không?

- Tôi thích nhạc Mozart.

Katia bèn chọn khúc Sonat mộng ảo cung mi thứ

của Mozart. Nàng chơi rất hay, tuy có chút nghiêm nghị và khô khan. Không rời mắt khỏi những nốt nhạc và mím chặt môi, nàng ngồi im, ngay ngắn, và chỉ tới cuối bản sonat khuôn mặt nàng mới bừng đỏ lên, một mớ tóc nhỏ sổ ra xõa xuống một bên lông mày màu sẫm của nàng.

Arkadi đặc biệt sửng sốt về phần chót của bản sonat, tức là phần mà giữa những âm thanh vui vẻ một cách quyến rũ của một làn điệu nhởn nhơ vô tư lự, bỗng nhiên nảy ra những nguồn cơn đau xót, hầu như một nỗi buồn thương bi thảm... Nhưng những suy tư do những âm thanh của Mozart gợi lên trong lòng chàng lại không liên quan gì đến Katia. Khi nhìn nàng, chàng chỉ nghĩ rằng: “Ờ mà cái cô tiểu thư này đàn cũng không đến nỗi xoàng, và chính cô ấy cũng chẳng xoàng đâu”.

Đàn xong bản sonat, vẫn đặt tay trên những phím đàn. Katia hỏi: “Được chưa?” Arkadi trịnh trọng nói rằng mình không dám phiền nàng nhiều hơn nữa, rồi chàng bắt đầu nói chuyện với nàng về Mozart và hỏi nàng, - phải chăng nàng đã tự chọn lấy bản sonat ấy hay nàng theo sự hướng dẫn của ai? Song Katia chỉ trả lời cụt lủn; nàng lẩn tránh, nàng thu mình lại. Mỗi khi tình huống đó xảy ra với nàng, thì nàng chẳng bộc lộ mau chóng gì, ngay cả bộ mặt nàng lúc bấy giờ cũng mang vẻ bướng bỉnh, hầu như đờ đẫn ra nữa. Đấy không phải tự nàng bẽn lẽn, mà vì nàng hồ nghi và có chút gờm sợ bà chị đã dạy dỗ nên mình, một điều mà chính bà chị cũng không sao ngờ tới. Cuối cùng Arkadi đành phải tìm cách tỏ ra bình thường, thấy con Phiphi đã trở về thì gọi nó lại, vuốt lấy lệ lên đầu nó với một nụ cười rộng lượng. Còn Katia thì lại quay ra chọn lựa, sắp xếp những bông hoa.

Trong khi đó, Bazarov bị phạt liên tiếp vì cứ thua hết ván này đến ván khác. Anna chơi bài rất cừ, Porphiri Platonưts cũng còn tự bảo vệ được. Rút cuộc Bazarov đã thua, tuy không thua nhiều lắm, nhưng dù sao cũng không thật đáng hài lòng đối với chàng. Trong bữa chiều, Anna lại lái câu chuyện sang lĩnh vực thực vật học.

- Sáng sớm mai ta đi dạo nhé, - nàng bảo chàng, - tôi muốn nhờ anh bảo cho những tên Latinh và những đặc tính của các cây cỏ trên đồng ruộng.

- Chị cần những tên Latinh để làm gì? - Bazarov hỏi.

- Chỗ nào cũng cần có trật tự cả, - nàng đáp.

- Chị Anna thật là một phụ nữ diệu kỳ! - Arkadi thốt lên như vậy, khi chỉ còn lại hai người bạn với nhau trong căn buồng dành riêng cho họ.

- Phải, - Bazarov đáp, - đó là một người đàn bà có đầu óc. Vả lại, bà ấy cũng đã trải mùi đời.

- Cậu nói câu ấy theo nghĩa nào, Evgheni?

- Theo nghĩa tốt, theo nghĩa tốt đấy, ông bạn Arkadi của tôi ạ! Mình tin chắc là bà ta cai quản cái cơ ngơi của bà ta cũng cừ nữa kia. Nhưng cái kỳ diệu không phải là bà ấy, mà là cô em

- Sao? Cái cô ngăm đen đấy ư?

- Phải, cái cô ngăm đen ấy. Vừa tươi mát, vừa nguyên vẹn, vừa nhút nhát, vừa thầm lặng, nghĩa là cái gì cũng có. Đấy chính là cái mà ta có thể quan tâm. Với cô này thì ta có thể nghĩ sao, làm vậy được, còn bà kia thì sành sỏi lắm rồi.

Arkadi không đáp lại Bazarov một lời nào, và rồi mỗi người đều đi ngủ với những suy tư riêng trong đầu óc mình.

Và cả Anna cũng nghĩ ngợi đến những vị khách của mình trong buổi tối ngày hôm ấy. Nàng thích Bazarov, một con người không bộ tịch đỏm dáng gì mà lại có những xét đoán thật sắc cạnh. Ở chàng nàng thấy có cái gì mới mẻ mình chưa được thấy bao giờ, mà nàng thì lại hiếu kỳ.

Anna là một con người khá kỳ quặc. Do không có những thành kiến, thậm chí không có cả những tín ngưỡng sâu sắc nên nàng không hề lui bước trước bất kỳ một việc gì, mà cũng chẳng đi tới đâu cả. Nàng thấy rõ được nhiều điều, quan tâm đến nhiều điều, nhưng không có điều nào khiến nàng mãn nguyện cả; vả lại chính bản thân nàng cũng vị tất đã mong muốn sự mãn nguyện này. Trí óc của nàng vừa ham tìm tòi lại vừa dửng dưng; những nỗi hoài nghi của nàng không bao giờ lắng dịu đến mức lãng quên đi, nhưng chúng cũng lại chẳng bao giờ phát triển thành những niềm lo âu xao xuyến cả. Ví thử nàng không giàu có và không độc lập như thế, thì có lẽ nàng đã xông vào cuộc chiến đấu, đã biết đến nỗi say mê... Nhưng nàng đã sống một cuộc sống dễ dàng, mặc dù đôi lúc cũng thấy buồn tẻ, nên nàng tiếp tục sống lần hồi từng ngày, không vội vã, và chỉ thỉnh thoảng mới thấy lòng mình rộn rã. Những màu sắc rực rỡ đầy hứa hẹn đôi khi cũng bừng lên trước mắt nàng, nhưng khi chúng phụt tắt đi thì nàng thường nghỉ ngơi và không hề nuối tiếc. Trí tưởng tượng của nàng thường bay bổng cả ra ngoài phạm vi mà những luật lệ đạo đức thông thường cho phép. Nhưng ngay cả bấy giờ, các mạch máu của nàng vẫn chầm chậm êm trôi như cũ trong tấm thân cân đối một cách quyến rũ và yên tĩnh của nàng. Có những khi vừa tắm nước thơm xong bước ra, nàng cảm thấy toàn bộ thân mình ấm áp và như được vuốt ve mơn trớn, và nàng mơ màng nghĩ tới cái vô vị của đời người, tới nỗi đau buồn, nỗi khó khăn cực nhọc và tai ương của cuộc sống... Tâm hồn nàng đột nhiên tràn ngập một cảm giác táo bạo và sôi động lên với một chí hướng cao đẹp. Nhưng một ngọn gió lùa đã từ cánh cửa sổ khép nửa chừng len lén thổi vào, khiến Anna co rúm cả người lại, rồi nàng than phiền, rồi nàng hầu như bực mình lên, và lúc bấy giờ nàng chỉ cốt có mỗi một điều, là sao cho cái ngọn gió quái ác đó đừng thổi vào người mình nữa.

Như mọi phụ nữ chưa được yêu khác, nàng cũng thèm muốn một cái gì đó mà chính nàng cũng chẳng hiểu. Thật ra, nàng chẳng ao ước một cái gì, mặc dầu nàng tưởng chừng như mình ao ước tất cả. Hồi ông Odintxov còn sống, phải khó khăn lắm nàng mới chịu đựng nổi ông ta (nàng đã lấy ông theo sự tính toán, mặc dù chắc hẳn nàng sẽ không thuận làm vợ ông nữa nếu như nàng không cho ông là một con người tốt bụng) và từ đó nàng thầm ghê tởm mọi người đàn ông, nàng cho rằng tất cả bọn họ chỉ là những sinh vật nhơ nhớp, nặng nề, uể oải và hay quấy rầy một cách bất lực, chứ không có gì khác cả. Có một lần, ở đâu đó tại nước ngoài, nàng đã bắt gặp một người Thụy Điển trẻ, đẹp, có nét mặt hiệp sĩ, có đôi mắt xanh chân thật dưới vầng trán rộng. Người này đã gây cho nàng một ấn tượng mạnh mẽ, nhưng điều đó cũng đã chẳng ngăn cản được nàng trở lại nước Nga.

“Cái anh y sĩ này thật là một con người kỳ dị!” - nàng nghĩ vậy, khi nằm trong chiếc giường tuyệt đẹp của mình, trên những tấm gối thêu đăngten, dưới tấm chăn lụa nhẹ nhàng... Anna cũng có kế thừa phần nào cái khuynh hướng thích sang trọng của ông bố. Nàng rất quý ông bố tội lỗi nhưng hiền hậu của mình, ông cũng rất mực yêu thương nàng, đùa bỡn thân mật với nàng như với người bằng vai phải lứa, hoàn toàn tin cậy nàng và thường bàn bạc với nàng. Còn mẹ nàng thì nàng lại chẳng nhớ gì nhiều.

“Cái anh y sĩ kỳ lạ này!” - nàng lại thầm nhắc. Nàng duỗi dài chân tay, mỉm cười, đưa hai tay luồn xuống dưới mái đầu, sau đó lướt đọc một hai trang trong cuốn tiểu thuyết dớ dẩn của Pháp, đoạn buông rơi cuốn sách, - và ngủ thiếp đi, toàn thân tinh khiết và thơm tho.

Sáng hôm sau, ngay sau khi ăn sáng xong, Anna đã lập tức cùng Bazarov đi nghiên cứu thực vật học, tới tận trước bữa ăn trưa mới quay về. Arkadi chẳng đi đâu cả và đã ngồi chơi với Katia gần một tiếng đồng hồ. Với Katia chàng cũng chẳng đến nỗi buồn, chính nàng đã tự nguyện đàn lại bài sonat hôm qua cho chàng nghe. Nhưng khi cuối cùng bà Odintxova trở về, lúc chàng trông thấy bà ta thì trái tim chàng vụt như thắt lại... Bà ta bước trong vườn với dáng đi hơi mệt mỏi, đôi má bà ửng đỏ và đôi mắt bà long lanh sáng hơn ngày thường dưới chiếc mũ rơm tròn. Bà ve vẩy trên tay một nhánh hoa đồng nội mảnh mai, tấm khăn choàng mỏng từ vai trễ xuống khuỷu tay và những dải mũ rộng bản màu xám dán chặt vào ngực bà. Bazarov bước theo sau bà ta, vẫn tự tin và ngạo mạn như bao giờ hết, nhưng nét mặt chàng ta, tuy vui tươi và thậm chí trìu mến nữa, đã khiến Arkadi không vừa lòng. Bazarov lẩm bẩm qua hai hàm răng siết chặt: “Chào cậu”, đoạn đi về phòng mình, còn bà Odintxova thì lơ đãng bắt tay Arkadi rồi cũng đi qua trước mặt chàng.

“Chào cậu... - Arkadi nghĩ bụng. - Phải chăng là hôm nay mình với cậu ấy chưa hề gặp nhau lần nào?”.

Chú thích:

[1] Al fresco - một phương pháp hội họa dùng màu nước vẽ trên nền phông “còn ướt”, có nghĩa là vẽ ngay lên những vòm mái, tường, trần nhà vừa được quét một lớp xi măng ướt (fresco - còn ướt, mới).

[2] Xperanxki Mikhail Mikhailovich (1772 - 1839): nhà hoạt động quốc gia Nga, tác giả bản dự thảo cải tổ quốc gia dưới triều đại Alekxandr I.Ông là con một linh mục thôn quê.

[3] Chó giống borzoi - một nòi chó săn, mình dài, cong, mõm dài, nhọn.

[4] Mozart Wolfgang Amadeus (1756 - 1791): nhà soạn nhạc Áo. Người đại diện cho trường phái cổ điển Vienna, đã sớm bộc lộ là một nhạc công có tài năng toàn diện. Đã cải biến và làm phong phú thêm tất cả các thể loại âm nhạc đương thời, các vở opera.