Chương 24
Khoảng hai giờ sau, ông đã đến gõ cửa buồng Bazarov.
- Tôi phải xin lỗi là đã đến cản trở công việc nghiên cứu khoa học của cậu, - ghé ngồi xuống chiếc ghế cạnh cửa sổ và đưa cả hai tay tì vào batoong có cán bằng ngà rất đẹp của mình (thường ngày ông vẫn không chống batoong), ông mở lời, - nhưng tôi buộc phải xin cậu bớt cho tôi năm phút... chứ không hơn.
- Tôi sẵn lòng dành mọi thời giờ của tôi để tiếp chuyện bác, - Bazarov đáp, và trước đó, một vẻ gì đã thoáng hiện trên nét mặt chàng ngay từ lúc thấy ông Pavel Petrovich bước qua ngưỡng cửa buồng.
- Về phần tôi thì chỉ năm phút là đủ. Tôi đến để nêu với cậu một câu hỏi.
- Một câu hỏi ư? Về vấn đề gì vậy?
- Vậy xin cậu nghe tôi nói. Khi cậu mới đến ở chơi nhà chú em tôi, lúc tôi vẫn còn chưa sẵn lòng tiếp chuyện cậu, tôi đã luôn được nghe ý kiến của cậu về nhiều đề tài. Nhưng, theo chỗ tôi nhớ được thì cả giữa chúng ta lẫn khi có sự hiện diện của tôi, chưa bao giờ có sự bàn luận gì về vấn đề quyết đấu, về vấn đề so gươm đọ súng cả. Xin cậu cho biết ý kiến của cậu về đề tài đó ra sao?
Vừa mới đứng dậy để nghênh đón ông Pavel Petrovich xong, Bazarov bèn ghé ngồi lên một mép bàn và khoanh tay lại trước ngực.
- Ý kiến tôi là, - chàng nói, - về phương diện lý luận, quyết đấu là một chuyện bậy bạ. Thế còn về phương diện thực tế thì đó lại là việc khác.
- Nghĩa là, theo chỗ tôi vừa được hiểu ý cậu, cậu muốn nói rằng: dù cho quan điểm lý luận của cậu đối với vấn đề quyết đấu như thế nào, trên thực tế cậu vẫn sẽ không cho phép người ta xúc phạm đến mình mà không có sự đòi hỏi thanh toán?
- Bác đã xét đoán đúng ý nghĩ của tôi.
- Hay lắm. Nghe cậu nói vậy tôi rất vui lòng. Lời cậu nói khiến tôi không mù mờ nữa...
- Khiến bác không do dự nữa, chắc bác muốn nói thế.
- Cũng vậy cả thôi. Tôi cốt nói sao cho cho cậu hiểu được rồi. Tôi... không phải là con chuột ở trường dòng. Những lời cậu nói khiến tôi khỏi phải làm những việc cần thiết đáng buồn nào đó. Tôi đã quyết định đọ sức với cậu.
Bazarov trố mắt.
- Với tôi?
- Nhất định là với cậu rồi.
- Mà vì lẽ gì kia, xin bác cho biết.
- Tôi cũng có thể nói rõ nguyên nhân được, - ông Pavel Petrovich nói. - Song tôi cho rằng không nói đến thì hay hơn. Theo sở thích của tôi, cậu ở đây là thừa. Tôi không sao chịu được sự có mặt của cậu nữa. Tôi khinh bỉ cậu, và nếu cậu thấy như thế còn chưa đủ thì...
Cặp mắt ông Pavel Petrovich lóe lên... Đôi mắt Bazarov cũng như tóe lửa ra.
- Được lắm, - chàng nói, - không cần giải thích gì thêm nữa. Bác đã có ý ngông là định thử cho tôi biết tinh thần hiệp sĩ của bác. Tôi cũng có thể chối từ khiến bác không được hài lòng, nhưng thôi, muốn đến đâu thì đến.
- Hết lòng cảm ơn cậu, - ông Pavel Petrovich đáp, - và giờ đây tôi có thể hy vọng rằng cậu sẽ nhận lời thách thức của tôi mà không buộc tôi phải dùng tới các biện pháp cưỡng bức.
- Nếu nói trắng ra thì nghĩa là không phải dùng tới chiếc batoong này? - Bazarov điềm nhiên nhận xét. - Điều đó cũng là hoàn toàn công bằng thôi. Bác chẳng cần gì phải xúc phạm tới tôi nữa. Làm như vậy cũng chẳng thật an toàn gì cho lắm đâu. Bác vẫn có thể tỏ ra quân tử... Tôi cũng nhận lời thách thức của bác với thái độ quân tử.
- Tuyệt lắm, - ông Pavel Petrovich nói, đoạn dựng chiếc batoong vào góc buồng. - Bây giờ ta nói vài lời về điều kiện quyết đấu của chúng ta. Nhưng trước tiên, tôi muốn được biết cậu có thấy cần phải làm một thủ tục gì đó cho vụ va chạm nho nhỏ có thể dùng làm lý do cho lời thách thức của tôi không?
- Không, không cần thủ tục thì tốt hơn.
- Chính tôi cũng nghĩ thế. Và tôi cho rằng bây giờ cũng không phải lúc ta đi sâu vào nguyên nhân thực sự của sự đụng độ giữa đôi bên. Chúng ta không thể nào chịu đựng nổi nhau được. Còn gì hơn nữa?
- Còn gì hơn nữa? - Bazarov nhắc lại một cách châm biếm.
- Còn về những điều kiện cụ thể của cuộc quyết đấu, thì vì rằng chúng ta đều sẽ không có người phò tá, - bởi lẽ tìm đâu ra người phò tá bây giờ?
- Chính thế, tìm đâu ra người phò tá bây giờ?
- Do đó tôi xin hân hạnh đề nghị với cậu như sau: ngày mai ta đọ sức sớm, vào sáu giờ chẳng hạn, ở đằng sau khu rừng nhỏ, bằng súng ngắn, cự ly là mười bước...
- Mười bước hả? Thì mười bước. Chúng ta sẽ căm thù nhau trong khoảng cách đó.
- Có thể tám bước, - ông Pavel Petrovich nhận xét.
- Có thể lắm, sao lại không?
- Bắn hai lần. Và đề phòng sẵn, mỗi người sẽ bỏ trước vào túi một bức thư ngắn tự kết tội về cái chết của mình.- Về điểm ấy thì tôi lại chưa đồng ý lắm, - Bazarov nói. - Hơi trệch sang tiểu thuyết Pháp mất rồi, có cái gì đó không chân thực lắm.
- Có thể là như vậy. Nhưng chắc cậu cũng đồng ý rằng nếu bị nghi là giết người thì sẽ rất khó chịu chứ?
- Tôi đồng ý. Nhưng cũng có cách để tránh được cái lời trách móc đáng buồn đó. Chúng ta sẽ không có người phò tá, nhưng có thể có người làm chứng.
- Cụ thể là ai, xin cho biết.
- Thì có anh Piotr.
- Anh Piotr nào?
- Người hầu phòng cho ông em của bác ấy. Anh ta là người có trình độ học vấn hiện đại và trong những trường hợp như thế này nhất định sẽ đóng được vai trò của mình với mọi sự cần thiết cominpho.
- Thưa quý ngài, tôi có cảm tưởng là quý ngài đùa.
- Tôi không đùa chút nào. Sau khi suy xét kỹ đề nghị của tôi, bác sẽ thấy là nó rất có lý và rất giản tiện. Giấu kim trong tay áo thế nào được, còn anh Piotr thì tôi sẽ chịu trách nhiệm chuẩn bị cho anh ta một cách đúng mức và dẫn anh ta tới chỗ ta bắn nhau.
- Cậu lại đùa rồi, - ông Pavel Petrovich vừa cất mình khỏi ghế vừa nói. - Nhưng sau khi cậu đã tỏ ra sẵn sàng một cách lịch sự thì tôi không có quyền bất bình với cậu nữa... Thế là mọi việc đều ổn thỏa cả... Nhân tiện xin hỏi: cậu không có súng ngắn chứ gì?
- Bác Pavel Petrovich, tôi thì kiếm ở đâu ra súng ngắn được? Tôi đâu phải là chiến binh.
- Trong trường hợp đó, tôi xin đưa cậu dùng những khẩu súng của tôi vậy. Cậu có thể tin chắc được rằng đã năm năm nay tôi không hề dùng đến chúng.
- Đó là một tin tức có sức an ủi rất lớn.
Ông Pavel Petrovich cầm lấy chiếc batoong...
- Thưa quý ngài, giờ đây tôi chỉ còn xin cảm tạ ngài, để ngài có thể trở lại với
công việc nghiên cứu của mình. Tôi xin được hân hạnh cúi chào.
- Thưa quý ngài, xin hẹn tới cuộc gặp mặt thú vị ấy, - Bazarov nói và tiễn khách ra cửa.
Ông Pavel Petrovich đã ra về rồi mà Bazarov vẫn đứng bên cánh cửa buồng, và chàng bỗng thốt lên: “Hừ, đồ quỷ! Vừa đẹp đẽ lại vừa ngu ngốc biết bao! Ta đã diễn một vở hài kịch như vậy đấy! Hệt như những con chó luyện nhảy nhót bằng hai chân sau. Thế nhưng từ chối cũng không xong, bởi vì, còn nói gì nữa, lão ta có thể choảng mình, và lúc bấy giờ... (Chỉ nghĩ đến chuyện ấy Bazarov cũng đã tái mặt đi và mọi niềm kiêu hãnh đã chồm dậy trong lòng chàng). Lúc bấy giờ mình sẽ buộc phải bóp chết lão ta như một con mèo con”. Chàng lại quay trở về với chiếc kính hiển vi, nhưng lòng chàng đã náo động lên, chàng đã không còn bình tĩnh để có thể tiến hành được việc quan sát nữa. “Hôm nay lão ta đã nhìn thấy mình với cô Pheneska rồi, - chàng nghĩ, - nhưng phải chăng đó là lão ta bênh vực cho ông em của lão? Mà một cái hôn thì đã quan trọng gì cho cam? Ở đây phải có một chuyện gì khác nữa. Ờ! Hay chính lão cũng mê cô ta rồi? Hiển nhiên là lão ta mê đứt đi rồi, điều đó đã rõ như ban ngày. Chuyện rắc rối thế kia đấy, thấy chưa!... Tồi tệ thật! - Sau cùng chàng kết luận: - Nhìn bề nào cũng thấy tồi tệ. Trước hết là sẽ phải giơ trán ra hứng đạn và dù sao chăng nữa cũng phải cuốn gói thôi. Thế còn Arkadi... và lại cả cái ông Nikolai Petrovich hiền như bụt ấy nữa. Tồi tệ, tồi tệ thật”.
Cái ngày hôm đó trôi qua sao đặc biệt yên ắng và uể oải thế. Về Pheneska thì dường như cô ta đã bay biến đi đâu mất, cô ta ru rú ngồi trong buồng như chuột nhắt chúi trong hang vậy. Ông Nikolai Petrovich có vẻ lo âu, bởi lẽ ông đặc biệt trông mong vào vụ lúa mì này, nhưng lại được báo cáo rằng lúa mì đã có bệnh than. Với vẻ lịch sự lạnh như băng của mình, ông Pavel Petrovich đã áp chế tất cả mọi người, kể cả bác Prokophich. Bazarov đã đặt bút viết thư cho bố, nhưng rồi lại xé tan ngay tờ giấy, ném xuống gầm bàn. Chàng nghĩ: “Nếu mình chết, các cụ sẽ tự khắc biết. Mà mình cũng chẳng chết được đâu. Không, mình sẽ còn vất vưởng chán trên cõi đời này”. Chàng đã ra lệnh cho Piotr sáng tinh mơ ngày hôm sau phải đến gặp chàng để có công việc quan trọng, và Piotr những tưởng là Bazarov định đem anh ta lên Peterburg. Mãi khuya, Bazarov mới đi nằm, nhưng suốt đêm những giấc mơ hỗn độn đã đến giày vò chàng... Odintxova cứ quẩn quanh trước mắt chàng, rồi bà ta lại hóa ra mẹ chàng, theo sau là một con mèo nhỏ có ria đen, con mèo đó lại hóa ra Pheneska. Còn ông Pavel Petrovich thì chàng lại mơ thấy ông ta là một khu rừng lớn, vậy mà chàng vẫn phải đi đánh nhau với khu rừng đó. Piotr đánh thức chàng vào đúng bốn giờ sáng, chàng lập tức mặc quần áo rồi cùng Piotr ra đi.
Buổi sáng hôm ấy thật là đẹp đẽ và mát mẻ. Những đám mây nhỏ sặc sỡ lăn tăn như sóng gợn trên bầu trời xanh mờ sáng. Sương mai nhỏ nhẹ rải rác trên cành lá, cỏ cây, và ánh lên như bạc trên những mạng nhện. Mặt đất ẩm ướt và tăm tối dường như vẫn giữ lại dấu vết ửng hồng của ánh bình minh. Khắp bầu trời đây đó đều vang lừng tiếng hót của chim sơn ca. Đi tới khu rừng nhỏ, Bazarov ghé ngồi dưới bóng cây ở bìa rừng và chỉ tới lúc đó chàng mới cho Piotr biết mình cần anh ta giúp đỡ việc gì. Cái anh đầy tớ có học thức này sợ chết khiếp, nhưng Bazarov khuyên nhủ để anh ta yên lòng là anh ta chẳng phải làm gì hết ngoài việc đứng xa xa mà nhìn, và sẽ chẳng phải chịu mảy may trách nhiệm nào. Chàng còn nói thêm: “Anh thử nghĩ xem, ấy thế mà vai trò của anh quan trọng cực kỳ đấy!” Anh ta dang hai tay tỏ vẻ thất vọng, cúi gằm xuống, rồi đứng tựa vào một cây bạch dương, mặt mũi tái xanh như tàu lá.
Con đường từ Marino đến bao quanh vạt rừng nhỏ. Lớp bụi mỏng trải trên đường từ ngày hôm qua tới nay vẫn chưa in vết bánh xe cũng như vết chân người. Bazarov, tự dưng lại thỉnh thoảng nhìn dọc theo con đường ấy, bứt cỏ mà nhai, và lòng thì luôn tự nhủ thầm: “Cái trò ngu xuẩn hết sức!”. Khí lạnh ban mai khiến chàng cũng phải rùng mình đôi ba lượt... Piotr ngán ngẩm đưa mắt nhìn chàng, nhưng chàng chỉ cười khẩy, chẳng sợ hãi chút nào.
Đã vang lên tiếng vó ngựa lộp cộp trên đường... Bỗng có một người nông dân nhô ra khỏi lùm cây. Anh ta ruổi hai con ngựa bị buộc chân đang đi phía trước mặt. Đi ngang qua chỗ Bazarov, anh ta chẳng ngả mũ chào mà lại còn nhìn chàng với một vẻ kỳ lạ, khiến cho Piotr rõ ràng đã trở nên lo lắng, thấy đó là một dấu hiệu chẳng lành. “Cái anh chàng này cũng dậy sớm thật, - Bazarov nghĩ bụng, - chí ít là do anh ta có công việc. Thế còn chúng ta?”
- Hình như họ đến đấy ạ, - Piotr bỗng thì thào.
Bazarov ngẩng đầu lên, trông thấy ông Pavel Petrovich. Bận một chiếc áo véttông mỏng, kẻ ô vuông, và một chiếc quần trắng như tuyết, ông ta đang rảo bước trên con đường. Ông cắp dưới nách một chiếc hộp quấn dạ màu xanh lá cây.
- Xin lỗi, chắc tôi đã khiến cậu phải chờ đợi, - ông nói, đoạn nghiêng mình trước hết chào Bazarov, rồi sau đó chào cả Piotr mà trong giây phút đó ông cũng coi trọng như một người phò tá vậy. - Tôi không muốn đánh thức người hầu phòng của tôi dậy.
- Không sao ạ, - Bazarov đáp, - chính chúng tôi cũng vừa tới xong.
- À! Thế thì càng hay! - ông Pavel Petrovich đưa mắt nhìn quanh. - Không thấy có ai cả, không một ai cản trở chúng ta... Ta có thể vào việc chứ?
- Ta vào việc thôi.
- Chắc là cậu không đòi hỏi phải giải thích gì thêm chứ.
- Tôi không đòi hỏi.
- Cậu nạp đạn lấy chứ? - vừa rút hai khẩu súng ra khỏi hộp, ông Pavel Petrovich vừa hỏi.
- Không. Bác nạp đạn đi, còn tôi sẽ đi đếm bước. Chân tôi dài hơn, - Bazarov nói thêm trong một tiếng cười mát. - Một, hai, ba...
- Cậu Evgheni, - Piotr lắp bắp một cách khó nhọc (anh ta run lên bần bật, như bị sốt rét), - xin cậu, cho tôi được lùi ra xa.
- Bốn... năm... Lui xa ra đi, người anh em, lui ra đi. Thậm chí có thể núp sau gốc cây, bịt tai lại, miễn là đừng nhắm mắt là được. Hễ có ai ngã xuống thì chạy lại mà nâng dậy. Sáu... bẩy... tám... - Bazarov dừng bước. - Đủ chưa? - chàng ngoái lại hỏi ông Pavel Petrovich, - hay là thêm hai bước nữa?
- Tùy cậu, - ông ta vừa nạp viên đạn thứ hai, vừa đáp.
- Nào, thì ta thêm hai bước nữa. - Bazarov dùng mũi ủng vạch một vạch trên mặt đất. - Giới hạn ở đây nhé. À, mà nhân thể ta quy định: mỗi người chúng ta lùi xa cách giới hạn bao nhiêu bước? Vấn đề ấy cũng quan trọng đấy. Ngày hôm qua ta chưa thảo luận điểm đó.
- Tôi nghĩ là mười bước, - ông Pavel Petrovich đáp, đoạn đưa cả hai khẩu súng cho Bazarov. - Xin cậu làm ơn chọn cho.
- Tôi xin chọn. Bác Pavel Petrovich, bác có đồng ý rằng cuộc đọ súng của chúng ta khác thường đến phát bật cười lên không? Chỉ trông mặt cái anh phò tá của chúng ta thì đủ thấy.
- Lúc nào cậu cũng chỉ thích đùa, - ông Pavel Petrovich đáp. - Tôi không phủ nhận cái kỳ dị của cuộc đọ súng của chúng ta, nhưng tôi thấy có bổn phận báo trước để cậu biết là tôi có ý định đọ sức nghiêm chỉnh đấy. A bon entendeur salut!
- Ồ! Tôi không nghi ngờ gì rằng chúng ta đã quyết ý tiêu diệt lẫn nhau. Nhưng tại sao lại không cười đùa đôi chút và không kết hợp utile dulci? Thế là: bác nói với tôi bằng tiếng Pháp, thì tôi cũng đáp lại bằng tiếng Latinh rồi đấy nhé.
- Tôi sẽ đọ sức nghiêm chỉnh đấy, - ông Pavel Petrovich nhắc lại lần nữa rồi bước tới vị trí của mình. Về phần mình, Bazarov cũng đếm đủ mười bước cách đường ranh giới rồi đứng lại.
- Cậu sẵn sàng rồi chứ? - ông Pavel Petrovich hỏi.
- Hoàn toàn sẵn sàng.
- Chúng ta có thể cùng tiến lại.
Bazarov nhẹ nhàng tiến lên, ông Pavel Petrovich cũng tiến lại, thọc tay trái vào túi và từ từ đưa mũi súng lên... “Lão ta nhằm thẳng vào mũi mình, - Bazarov nghĩ, - mà sao cái lão kẻ cướp này cố nheo mắt nheo mũi lại ghê gớm thế! Nhưng đó là một cảm giác khó chịu. Mình chĩa vào cái dây đeo đồng hồ của lão...” Một cái gì bay vào, rít lên ngay sát mang tai Bazarov, đúng lúc đó vang lên tiếng súng nổ. “Ta nghe thấy rồi, thế nghĩa là không sao cả”, - chàng còn kịp thoáng nghĩ trong đầu như vậy. Chàng tiến thêm bước nữa rồi chẳng nhằm ngắm gì, cứ bóp cò.
Ông Pavel Petrovich hơi rùng mình rồi đưa một tay ôm lấy bắp đùi. Một dòng máu nhỏ chảy dọc theo chiếc quần trắng của ông.
Bazarov bèn quăng súng ra một bên, tiến lại gần đối thủ của mình.
- Bác bị thương à? - chàng nói.
- Cậu có quyền gọi tôi tới chỗ ranh giới, - ông Pavel Petrovich nói, - còn cái này thì chẳng có gì. Theo điều kiện quy định, mỗi người còn được bắn một phát nữa.
- Ồ, xin lỗi bác, ta để lúc khác, - Bazarov đáp, và thấy mặt ông ta đã bắt đầu tái mét đi, chàng bèn ôm lấy lưng ông ta. - Bây giờ tôi không phải người quyết đấu nữa, mà là bác sĩ, và trước hết tôi phải xem xét vết thương của bác. Piotr, lại đây! Piotr, anh trốn đâu rồi?
- Tất cả những cái đó chỉ là chuyện vớ vẩn... Tôi chẳng cần tới sự giúp đỡ của ai hết, - ông Pavel Petrovich rành rẽ nói, - và... phải... lần nữa... Ông định đưa tay lên dứt một bên ria, nhưng cánh tay ông đã bải hoải ra, mắt ông trợn ngược lên, và rồi ông ngất đi.
- Thế mới lạ chứ! Ngất xỉu rồi! Mà có gì đâu kia chứ! - Bazarov bất giác kêu lên, rồi đặt ông Pavel Petrovich nằm xuống cỏ. - Ta xem thử nó là cái gì nào? - Chàng rút mùi xoa, lau sạch máu, đoạn sờ nắn quanh vết thương... - Xương còn nguyên, - chàng lẩm bẩm trong mồm, - đạn xuyên qua ở chỗ không sâu lắm, một cơ bắp vastus externus bị thương. Chỉ ba tuần là ông lại nhảy nhót được thôi!... Thế mà cũng ngất xỉu! Ôi chào, mình đến ngán những con người dễ xúc động quá như thế này! Thấy chưa, da mỏng dính thế này kia mà.
- Ông ấy chết rồi ạ? - giọng nói run run của Piotr rì rầm sau lưng chàng.Bazarov ngoái lại.
- Đi lấy nước mau lên, người anh em, ông ấy sẽ còn sống lâu hơn cả tớ lẫn cậu ấy.Nhưng, cái anh đầy tớ hoàn hảo đó chừng như không nghe ra lời chàng nói và chẳng nhúc nhích gì. Ông Pavel Petrovich từ từ mở mắt ra. “Ông ấy đang hồn lìa khỏi xác!” - Piotr thì thào và đưa tay làm dấu thánh giá.
- Cậu nói đúng... Sao lại có bộ mặt đần độn thế! - cái ông quân tử bị thương ấy nói với một nụ cười gượng gạo.
- Đi lấy nước đi chứ, đồ quỷ! - Bazarov quát lên.
- Không cần... Đây chỉ là cơn vertige thoáng qua thôi... Cậu đỡ tôi ngồi dậy... được rồi đấy... chỗ sây sát này chỉ cần lấy cái gì băng bó lại là tôi có thể đi bộ về nhà được, nếu không thì cũng có thể gọi xe ngựa lại đón tôi. Nếu cậu muốn thì không cần quyết đấu trở lại nữa. Cậu đã xử sự một cách cao thượng... rồi hôm nay, hôm nay, cậu sẽ thấy...
- Chuyện cũ chẳng nên nhắc đến làm gì, - Bazarov gạt đi, - còn chuyện sau này thì cũng chẳng tội gì phải nát óc, bởi vì tôi đã tính bài chuồn sớm rồi. Bây giờ bác hãy để tôi băng bó chân cho đã. Vết thương của bác chẳng nguy hiểm đâu, nhưng dù sao vẫn nên cầm máu lại thì tốt hơn. Song trước hết phải làm cho cái anh chết toi kia nó hồi tỉnh lại cái đã.
Bazarov bèn nắm lấy cổ áo Piotr mà lắc rồi bảo anh ta về gọi xe ngựa đến.
- Coi chừng đấy, chớ làm cho chú ấy hoảng sợ lên, - ông Pavel Petrovich bảo anh ta, - đừng có trình bẩm gì với chú ấy hết.
Piotr ù té chạy đi ngay. Trong khi anh ta chạy đi gọi xe, cả hai địch thủ đều cùng ngồi trên mặt đất và đều im lặng. Ông Pavel Petrovich cố gắng không nhìn Bazarov. Dù sao ông vẫn không muốn làm lành với chàng. Ông hổ thẹn vì thói kiêu căng của mình, về nỗi thất bại của mình, ông hổ thẹn về mọi chuyện do mình gây ra, tuy ông cũng cảm thấy được rằng những chuyện đó chẳng thể kết thúc tốt đẹp hơn thế được. “Chí ít là hắn ta sẽ không lởn vởn ở đây nữa, - ông tự an ủi mình, - thế cũng là hay rồi”. Tình trạng im lặng đó cứ kéo dài, nặng nề và khó xử. Cả hai bên đều thấy khó chịu. Bên nọ đều biết bên kia hiểu ý mình. Nếu là bạn thì sự hiểu biết đó dễ chịu, nhưng nếu là thù thì điều đó lại hết sức khó chịu, nhất là cả hai bên đều không sao giãi bày nổi mà cũng chẳng chia tay nhau được.
- Tôi bó chân cho bác có chặt quá không? - cuối cùng Bazarov hỏi.
- Không, không sao, tốt lắm, - ông Pavel Petrovich đáp, và một lát sau ông nói thêm, - không thể giấu được ông em tôi đâu, phải nói với chú ấy rằng chúng ta xích mích với nhau về chuyện chính trị.
- Được lắm, - Bazarov nói. - Bác có thể nói là tôi đã thóa mạ tất cả mọi kẻ đua đòi kiểu Ănglê.
- Cũng hay đấy. Còn cái người kia thì cậu cho rằng bây giờ anh ta nghĩ gì về chúng ta? - ông Pavel Petrovich nói tiếp, giơ tay trỏ chính người nông dân mà trước cuộc quyết đấu vài phút đã ruổi hai con ngựa buộc chân đi ngang qua chỗ Bazarov, nay đang theo con đường đó trở về, “ghé nhìn” và cất mũ chào khi thấy “các quý ngài”.
- Nào ai biết được! - Bazarov đáp, - điều chắc chắn hơn hết là anh ta chẳng suy nghĩ gì cả. Người nông dân Nga chính là một vị khách lạ bí hiểm mà bà Radcliffe 1
hồi nào đây đã từng bàn luận nhiều. Có ai hiểu được anh ta? Chính anh ta cũng chẳng hiểu bản thân anh ta nữa là.
- A! Ra cậu nghĩ vậy đấy! - ông Pavel Petrovich vừa định mở lời thì bỗng kêu lên, - cậu xem cái thằng Piotr ngu đần của cậu nó sinh sự ra rồi kìa. Ông em tôi đang phóng xe ngựa đến kia!
Bazarov quay lại thì đã thấy ông Nikolai Petrovich ngồi trên một chiếc xe ngựa nhỏ, mặt tái đi. Xe chưa kịp dừng bánh, ông đã nhảy xuống, lao về phía ông anh.
- Thế nghĩa là thế nào? - ông nói, giọng xúc động. - Cậu Evgheni, xin cậu cho biết, thế là thế nào?
- Có gì đâu, - ông Pavel Petrovich đáp, - chú chẳng có gì phải lo ngại cả. Tôi xích mích với cậu Bazarov tí chút và do đó phải trả giá tí chút thôi mà.
- Lạy Chúa, cớ sao mà đến nỗi như thế?
- Nói với chú thế nào bây giờ? Cậu Bazarov đã tỏ ý kiến thiếu tôn trọng đối với ngài Robert Pell 2. Thế nhưng tôi phải nói ngay với chú rằng: mọi sự đều chỉ do lỗi tại tôi mà thôi, còn cậu Bazarov đã xử sự hết sức đúng đắn. Tôi đã thách thức cậu ấy.
- Mà anh chảy máu ra rồi kìa!
- Thế chú cho rằng trong mạch máu của tôi là nước lã sao? Đối với tôi, chảy máu thế này lại có ích kia đấy. Đúng thế không, ông bác sĩ? Chú dìu tôi lên xe và đừng có đa sầu đa cảm làm gì. Mai tôi lại khỏe thôi. Thế được đấy, tốt lắm. Đi thôi, anh xà ích.
Ông Nikolai Petrovich đi theo chiếc xe. Bazarov đã định thụt lại sau...
- Tôi đành nhẽ phải yêu cầu cậu chăm sóc cho ông anh tôi, - ông Nikolai Petrovich bảo chàng, - trong khi chờ xe đi đón một thầy thuốc khác ở tỉnh về.
Bazarov lặng lẽ cúi đầu.
Một tiếng đồng hồ sau, ông Pavel Petrovich đã nằm trên giường, chân được băng bó rất khéo. Cả nhà xôn xao lên. Pheneska thấy choáng váng. Ông Nikolai Petrovich ngấm ngầm vật mình vật mẩy, nhưng ông Pavel Petrovich lại cứ cười, đùa, nhất là với Bazarov. Ông ta vận một chiếc sơmi láng mỏng, một chiếc áo ngoài màu sáng rất đỏm dáng và đội một chiếc mũ tròn kiểu Thổ Nhĩ Kỳ. Ông ta không cho buông rèm cửa sổ xuống và than phiền một cách rất ngộ nghĩnh về việc phải kiêng ăn.
Song, đến đêm thì ông ta lên cơn sốt và thấy nhức đầu. Bác sĩ ở tỉnh đã đến. (Ông Nikolai Petrovich đã không nghe lời ông anh, vả chăng chính Bazarov cũng muốn thế. Suốt ngày chàng cứ ngồi lì trong buồng, mặt vàng ệch ra và có vẻ dữ dội. Thỉnh thoảng chàng chạy sang thăm bệnh nhân rất chóng vánh rồi lại quay về. Có hai lần chàng bắt gặp Pheneska, nhưng cô ta khiếp đảm né ngay sang một bên để tránh mặt chàng). Ông bác sĩ mới tới đã khuyên ông Pavel Petrovich nên uống các thứ nước giải nhiệt, đồng thời cũng xác nhận thêm những lời đoan chắc của Bazarov là sẽ không có nguy hiểm gì xảy ra cả. Ông Nikolai Petrovich bảo ông ta là do vô ý, anh mình đã tự gây ra vết thương, song ông bác sĩ chỉ đáp lại một tiếng: “Hừm!” Nhưng khi được dúi ngay vào tay hai mươi nhăm rúp bạc, thì ông ta nói: “Cụ bảo thế ạ! Chuyện ấy cũng thường xảy ra thôi, đúng thế đấy ạ”.
Trong nhà, không ai đi nằm, không ai cởi bỏ quần áo được. Chốc chốc ông Nikolai Petrovich lại nhón bước vào thăm ông anh, rồi lại nhón bước đi ra. Ông Pavel Petrovich thường thiếp đi, kêu rên nhè nhẹ, dùng tiếng Pháp bảo ông: “Couchez - vous”, - và đòi uống nước. Có một lần ông Nikolai Petrovich bắt Pheneska phải bưng một cốc nước chanh chai lên cho ông anh. Ông nhìn cô ta chằm chằm rồi uống cạn sạch cốc nước. Tới sáng, cơn sốt của ông có tăng lên đôi chút và ông bắt đầu mê sảng nhẹ nhàng. Mới đầu ông Pavel Petrovich thốt ra những lời rời rạc, rồi sau ông bỗng mở bừng mắt ra, và khi thấy ông em đang đứng cạnh giường cúi xuống thăm nom chăm chút mình, ông nói:
- Nikolai Petrovich, cô Pheneska có vẻ gì hơi giống Nenli, có đúng thế không?
- Nenli nào cơ, anh Pavel Petrovich?
- Chú mà lại hỏi thế ư? Nữ công tước R. ấy. Nhất là phần mặt phía trên. C’est de la même famille.
Ông Nikolai Petrovich chẳng đáp lời, nhưng trong lòng ông ngạc nhiên thấy những cảm giác xưa cũ trong con người thật dai dẳng vô chừng.
“Đến bây giờ mới nói ra đấy”, - ông nghĩ.
- Ôi, ta yêu cái con người trống rỗng ấy biết bao! - ông Pavel Petrovich rên rỉ rồi buồn rầu đưa đôi tay lên gối đầu. - Ta sẽ không thể chịu được nếu có kẻ láo xược nào dám đụng đến... - ông ta lắp bắp nói giây lát sau đó.
Ông Nikolai Petrovich chỉ thở dài. Những lời lẽ đó nói về ai, điều đó ông không sao ngờ tới được.
Ngày hôm sau, vào khoảng tám giờ sáng, Bazarov đã đến gặp ông. Chàng đã kịp thu xếp đồ lề và đã thả hết mọi thứ ếch nhái, côn trùng, chim chóc của mình.
- Cậu đến từ biệt tôi đó sao? - cất mình đứng dậy nghênh đón chàng, ông Nikolai Petrovich nói.
- Đúng thế đấy ạ.
- Tôi hiểu cậu và hoàn toàn tán thành cậu. Dĩ nhiên là ông anh tội nghiệp của tôi có lỗi, chính do đó bác ấy đã bị trừng phạt. Bác ấy nói với tôi rằng bác ấy đã đặt cậu vào tình thế không sao có thể hành động khác được. Tôi tin là cậu đã không thể tránh được cuộc đọ sức ấy, mà chuyện đó... chuyện đó ở một mức độ nào đấy chỉ có thể giải thích được bằng sự đối lập thường xuyên về quan điểm hỗ tương giữa bác ấy với cậu. (Ông Nikolai Petrovich đã lẫn lộn cả từ ngữ). Ông anh tôi là con người kiểu cũ, hay nóng tính và ương ngạnh lắm... Nhờ trời, câu chuyện kết cục còn được như thế là may. Tôi đã có những biện pháp cần thiết để tránh câu chuyện khỏi vỡ lở ra...
- Cháu sẽ ghi lại cho bác địa chỉ đề phòng khi xảy ra điều tiếng gì, - Bazarov nhận xét với vẻ coi thường.
- Tôi hy vọng là sẽ không xảy ra điều tiếng gì cả, cậu Evgheni ạ... Tôi rất tiếc là chuyện cậu đến chơi nhà tôi mà lại bị... bị kết cục như vậy. Tôi lại càng phiền lòng là Arkadi...
- Chắc chắn cháu sẽ còn gặp anh ấy, - Bazarov gạt đi, bởi vì các loại “giải thích” với “tỏ lòng biết ơn” đều thường chỉ khiến chàng sốt ruột, - còn như nếu không gặp được thì nhờ bác chào anh ấy hộ cháu và xin bác lượng thứ cho.
- Cả tôi cũng xin... - ông Nikolai Petrovich nghiêng mình đáp lại. Song Bazarov chưa đợi ông nói hết câu đã bước ra ngoài.
Được tin Bazarov sắp lên đường, ông Pavel Petrovich cũng tỏ ý muốn gặp chàng và bắt tay chàng. Nhưng đến đó, Bazarov cũng vẫn lạnh như tiền, bởi chàng thừa hiểu ông ta chỉ cốt tỏ ra rộng lượng tí chút mà thôi. Với Pheneska chàng đã không đến từ biệt được, mà chỉ đưa mắt nhìn nhau qua cửa sổ. Chàng có cảm giác là nét mặt cô ta có vẻ buồn rầu. “Chắc cô ta sẽ nguy mất! - chàng tự nhủ thầm. - Ồ, rồi cô ta cũng sẽ thoát được bằng cách nào đó!”. Thế nhưng Piotr thì lại mủi lòng đến nỗi khóc nấc lên trên vai Bazarov, cho đến khi chàng phải khiến anh ta nguôi đi bằng câu hỏi là liệu đôi mắt anh ta có phải “vắt được ra nước không”. Còn Duniasa thì đã phải chạy biệt vào khu rừng nhỏ để giấu niềm xúc động của mình. Thế rồi cái con người gây ra tất cả những nỗi đau lòng ấy đã ngồi lên xe ngựa, châm xìgà hút, và tới verxta thứ năm, khi con đường rẽ ngang và khi lần cuối cùng trang trại của gia đình Kirxanov cùng với ngôi nhà quý tộc mới xây của nó đã dàn ra thành một hàng ngang trước mắt chàng, thì chàng chỉ nhổ phẹt một bãi nước bọt, lẩm bẩm: “Lũ con ông cháu cha chết tiệt”, đoạn quấn mình chặt hơn nữa trong tấm áo choàng.
Chẳng bao lâu, vết thương của ông Pavel Petrovich đã thuyên giảm; nhưng ông còn phải nằm trên giường trong gần một tuần lễ nữa. Ông đã chịu đựng tình trạng mà ông gọi là cảnh cầm tù một cách khá kiên nhẫn, có điều ông rất bận bịu với việc vệ sinh thân thể và luôn ra lệnh phải xông nước hoa. Ông Nikolai Petrovich thường đọc báo chí cho ông nghe. Pheneska vẫn phục dịch ông như cũ, bưng canh, nước chanh chai, trứng lacoóc, trà lên cho ông. Nhưng cứ mỗi lần bước vào buồng ông là cô lại thấy ngấm ngầm khủng khiếp. Hành vi bất ngờ của ông Pavel Petrovich đã khiến mọi người trong nhà đều hoảng sợ, nhất là Pheneska. Duy chỉ có bác Prokophich là chẳng xao xuyến gì, lại giải thích rằng vào thời bác thì các ông quý tộc cũng thỉnh thoảng có đánh nhau, “nhưng chỉ giữa những ông quý phái cao thượng thôi, còn những kẻ lừa đảo giở trò hỗn láo kiểu đó thì các ông ấy hạ lệnh mang vào chuồng ngựa mà quất”.
Pheneska hầu như không thấy lương tâm trách móc gì mình; nhưng ý nghĩ về nguyên nhân thực của trận hiềm khích đó vẫn thỉnh thoảng giày vò cô. Lại thêm ông Pavel Petrovich cứ ngó nhìn cô một cách kỳ cục... đến nỗi thậm chí cô quay lưng lại phía ông mà vẫn cảm thấy đôi mắt ông đang nhìn mình. Do trong lòng thường xuyên lo âu, cô gày đi, và, như thường thấy, trông cô lại càng xinh hơn trước.
Có một hôm - đó là vào buổi sáng - ông Pavel Petrovich cảm thấy trong người dễ chịu bèn chuyển từ giường sang nằm ở đivăng, còn ông Nikolai Petrovich, sau khi đã hỏi thăm sức khỏe ông anh, liền đi ra kho lúa gặt. Pheneska bưng trà lên, đặt trên một chiếc bàn nhỏ xong, cô đã định rút lui. Nhưng ông Pavel Petrovich đã giữ cô lại.
- Đi đâu mà vội thế, cô Pheneska?
- Không ạ... có ạ... Còn phải rót trà ở dưới nhà ạ.
- Không có cô, Duniasa nó làm cũng vẫn được. Cô ngồi đây một lát với người ốm nào. Nhân tiện tôi cũng có chuyện cần nói với cô.
Pheneska lẳng lặng ghé ngồi vào mép một chiếc ghế bành.
- Cô nghe tôi nói nhé, - ông Pavel Petrovich nói, đoạn đưa tay lên bứt bứt ria mép, - từ lâu tôi đã định hỏi cô: hình như cô sợ tôi thì phải.
- Em ấy ạ?...
- Phải, cô. Cô chẳng bao giờ nhìn vào tôi cả, hệt như lương tâm của cô không được trong sạch vậy.Pheneska đỏ mặt, nhưng vẫn đưa mắt nhìn ông Pavel Petrovich. Cô thấy ông ta kỳ quặc thế nào ấy, do đó phập phồng trong dạ.
- Lương tâm cô trong sạch đấy chứ? - ông hỏi cô
- Tại sao lại không trong sạch được ạ? - cô thì thào.
- Lại còn tại sao nữa! Thử hỏi cô có thể có lỗi với ai? Với tôi chăng? Điều đó không thể có được. Với những người khác trong cái nhà này chăng? Chuyện ấy cũng chẳng thể xảy ra được. Hay là với chú nó? Thế nhưng cô yêu chú nó kia mà?
- Em yêu.
- Yêu với tất cả tâm hồn, với tất cả trái tim mình chứ?
- Em yêu Nikolai Petrovich với tất cả trái tim mình.- Thật thế không? Hãy nhìn vào tôi thử nào, Pheneska. Cô biết rồi đấy: nói dối là một tội trọng!
- Em không nói dối đâu, bác Pavel Petrovich ạ. Em mà không yêu Nikolai Petrovich thì sau đó đến sống em cũng chả thiết nữa!- Và cô không thay lòng đổi dạ, đi yêu người khác chứ?
- Em có thể thay lòng đổi dạ đi yêu ai được kia ạ?
- Lại còn ai nữa! Chí ít là cái cậu vừa mới đi khỏi đây ấy. Pheneska đứng dậy.
- Trời! Lạy Chúa tôi, sao bác lại hành hạ em thế, bác Pavel Petrovich? Em có làm gì nên tội với bác đâu? Sao bác lại có thể nói những điều như vậy được?
- Pheneska, - ông Pavel Petrovich nói với giọng buồn rầu, - thì tôi đã thấy...
- Bác thấy gì kia ạ?
- Thấy ở đấy... ở nhà hóng mát ấy.
Pheneska đỏ bừng cả mặt mũi lên.
- Thì nào em có lỗi gì đâu ạ? - cô nói với vẻ khó nhọc.
Ông Pavel Petrovich hơi nhỏm mình dậy.
- Cô không có lỗi gì? Không ư? Hoàn toàn không?
- Trên đời này em chỉ yêu một mình Nikolai Petrovich và sẽ yêu suốt đời! - Pheneska nói với một sức mạnh đột ngột, mặc dù những tiếng nức nở cứ đưa lên cổ cô, - còn trong cái chuyện mà bác thấy thì dù có đến giờ phán xử cuối cùng của Chúa, em cũng vẫn sẽ bảo là hiện thời cũng như lúc đó, em chẳng có tội gì cả, và thà em chết ngay tức khắc chứ không để cho ai có thể nghi ngờ rằng em đối với ân nhân của em, đối với Nikolai Petrovich...
Nhưng nói đến đó thì cô lạc hẳn giọng, đồng thời có cảm giác như ông Pavel Petrovich đã nắm lấy và siết chặt tay mình... Cô nhìn vào ông và cứ đờ người ra. Bộ mặt ông càng tái hơn trước, cặp mắt ông lóe lên, và điều đáng ngạc nhiên hơn cả là một giọt nước mắt nặng nề và đơn độc đã lăn xuống má ông.
- Pheneska! - ông nói với một giọng thì thầm kỳ dị. - Cô hãy yêu, hãy yêu lấy chú ấy! Chú ấy là con người hiền lành, tốt bụng! Cô chớ phụ bạc chú ấy mà đem lòng yêu bất kỳ ai trên đời này, cô chớ nghe lời tán tỉnh của bất kỳ kẻ nào! Cô thử nghĩ xem, nếu yêu mà không được người ta yêu thì còn gì khủng khiếp hơn. Hãy đừng bao giờ bỏ rơi chú em Nikolai Petrovich tội nghiệp của tôi!
Nỗi sửng sốt của Pheneska lớn đến nỗi đôi mắt cô ráo hoảnh đi và cô không thấy sợ hãi gì nữa. Nhưng điều gì đã xảy ra với cô khi ông Pavel Petrovich, chính cái ông Pavel Petrovich ấy, lại cầm lấy tay cô gắn chặt vào đôi môi mình và rồi cứ áp chặt vào bàn tay ấy, tuy không hôn nó mà chỉ thỉnh thoảng lại thở nấc lên.
“Trời! - cô nghĩ. - Cụ ấy lại lên cơn rồi hay sao chả biết?...”
Song chính lúc đó là lúc mà cả một cuộc đời đã chết trong ông lại đang rạo rực trở lại.
Cầu thang gác đã cót két lên dưới những bước chân gấp gáp... Ông bèn đẩy ngay cô ta ra mà ngả đầu xuống gối. Cánh cửa mở toang, và rồi người ta thấy ông Nikolai Petrovich hiện ra vui vẻ, tươi tắn, hồng hào. Thằng Mitia cũng tươi tắn và hồng hào như bố nó, mặc độc một chiếc sơmi nhỏ, đang nhún nhảy trên ngực ông, dùng đôi chân trần quặp lấy những chiếc cúc to tướng trên chiếc áo khoác kiểu thôn quê của ông.
Thế là Pheneska lao mình chạy lại với ông, hai tay ôm lấy cả ông cùng đứa con trai rồi gục đầu lên vai ông. Ông Nikolai Petrovich ngạc nhiên, bởi vì Pheneska vốn tính cả thẹn và khiêm nhường, cô ta chưa âu yếm ông trước mặt người thứ ba như thế bao giờ cả.
- Em làm sao thế? - ông nói, đoạn đưa mắt nhìn ông anh, rồi đưa thằng Mitia cho cô bế. - Anh cảm thấy khó chịu hay sao thế? - vừa hỏi, ông vừa bước lại gần ông Pavel Petrovich.Ông này chỉ gục mặt vào chiếc khăn mùi xoa batít.
- Không... vậy thôi... không sao... trái lại, anh dễ chịu nhiều hơn rồi.
- Anh đã vội chuyển sang nằm ở đivăng làm gì. Em đi đâu vậy? - Ông quay lại phía Pheneska nói thêm, nhưng cô ta đã bước ra và đóng sập cửa lại. - Em đã định bế cậu dũng sĩ tí hon của em lên chơi với anh, kẻo nó nhớ bác nó. Vậy mà cô ấy lại bế nó đi làm gì chẳng biết? Nhưng, anh làm sao thế? Giữa cô ấy với anh có xảy ra chuyện gì hay sao?
- Em ơi! - ông Pavel Petrovich nói với vẻ long trọng.
Ông Nikolai Petrovich giật mình. Ông bỗng cảm thấy trờn trợn mà chính ông cũng chẳng hiểu tại sao.
- Em ơi, - ông Pavel Petrovich nhắc lại, - em hãy hứa thực hiện một ý nguyện của anh.
- Ý nguyện gì vậy? Anh nói đi.
- Ý nguyện này rất quan trọng. Theo sự hiểu biết của anh, tất cả hạnh phúc của đời em là tùy thuộc ý nguyện này. Suốt thời gian gần đây, anh đã suy nghĩ rất nhiều tới điều mà giờ đây anh định nói với em... Em ạ, em hãy làm tròn nghĩa vụ của em, nghĩa vụ của một con người chính trực và cao thượng, em hãy chấm dứt tình trạng cám dỗ và cái gương xấu mà chính em, chính em, một con người tốt đẹp nhất trong những con người, đang nêu ra!
- Anh nói gì vậy, anh Pavel Petrovich?- Em hãy cưới Pheneska đi... Cô ấy yêu em, cô ấy lại là mẹ của đứa con trai em.
Ông Nikolai Petrovich lùi lại và chắp hai tay lại.
- Anh nói vậy sao, anh Pavel Petrovich? Thế mà xưa nay em vẫn cho rằng anh bao giờ cũng là người chống lại quyết liệt nhất những cuộc hôn nhân như thế! Anh nói vậy đấy ư? Anh lại không biết rằng duy chỉ vì nể anh nên em chưa thực hiện cái mà anh gọi là bổn phận của em một cách rất công bằng đó sao!
- Trong trường hợp này em nể anh mà làm gì, - ông Pavel Petrovich gạt đi với một nụ cười chán ngán. - Anh bắt đầu cho rằng Bazarov có lý khi cậu ta trách anh là kẻ quý phái. Thôi, em yêu quý của anh ạ, chúng ta đừng kiểu cách nữa và nghĩ làm gì đến thế tục: chúng ta đã luống tuổi và là những người trầm lặng, đã đến lúc chúng ta phải gác bỏ mọi sự bận rộn ở đời. Chính đó, như em nói, là chúng ta sẽ bắt tay làm tròn bổn phận của chúng ta. Và rồi em sẽ thấy, chúng ta sẽ có thêm nhiều hạnh phúc hơn xưa đấy.
Ông Nikolai Petrovich chạy vội tới ôm lấy anh.
- Anh làm cho em sáng mắt hẳn ra! - ông thốt lên. - Em luôn khẳng định rằng anh là con người có hảo tâm và thông minh nhất trên đời, điều đó quả không sai. Và giờ đây, em còn thấy anh vừa khôn ngoan, lại vừa rộng lượng.
- Khẽ chứ, khẽ chứ, - ông Pavel Petrovich ngắt lời ông, - Chớ đụng vào bên chân đau của người anh khôn ngoan của em, một con người khôn ngoan mà năm mươi tuổi đầu rồi vẫn đi đánh nhau trong một trận quyết đấu như một anh thiếu úy. Vậy là xong xuôi rồi nhé: đối với anh Pheneska sẽ là... belle - soeur.
- Anh Pavel Petrovich yêu quý của em! Còn Arkadi sẽ có ý kiến ra sao?
- Arkadi ấy ư? Nó sẽ mừng rỡ thôi! Tuy cuộc hôn nhân này không hợp với những nguyên tắc của nó, nhưng nó lại được hởi lòng hởi dạ về mặt ý thức bình đẳng. Mà thật thế, cứ đẳng cấp mãi thì còn ra cái gì au dixneuvième siècle?
- Ôi, anh Pavel Petrovich, anh Pavel Petrovich! Cho em được hôn anh một lần nữa. Anh đừng sợ, em từ từ thôi.Hai anh em ôm hôn nhau
.- Vậy em thấy thế nào, em cho cô ấy biết ý định đó ngay bây giờ chứ? - ông Pavel Petrovich hỏi.
- Sao phải vội thế, anh? - ông Nikolai Petrovich gạt đi. - Giữa anh với cô ấy đã có bàn bạc rồi chăng?
- Bàn bạc, giữa anh với cô ấy? Quelle idée!
- Ồ, thế thì tốt. Trước hết anh hãy bình phục lại đã, còn câu chuyện kia thì có đi đâu mất mà sợ. Phải suy nghĩ cho thật chín, phải cân nhắc cho kỹ...
- Nhưng em đã quyết ý rồi mà?
- Dĩ nhiên là quyết ý rồi, và em hết lòng cảm ơn anh. Còn bây giờ em đi nhé. Anh phải nghỉ ngơi đi, bây giờ mọi chuyện xúc động đối với anh đều có hại cả đấy... Chúng ta sẽ còn bàn bạc thêm nữa. Ngủ đi, anh yêu quý của em, và cầu trời cho anh được mạnh khỏe!
“Sao chú ấy lại cảm ơn mình thế nhỉ? - còn lại một mình, ông Pavel Petrovich ngẫm nghĩ. - cứ như là chuyện chẳng tùy thuộc gì vào chú ấy cả! Còn ta thì ngay sau khi chú ấy cưới xong, ta sẽ đi một nơi nào đó xa xôi hơn, đi Dresden hoặc Florence, và ta sẽ sống ở đó chừng nào còn chưa từ giã cõi đời”.
Ông Pavel Petrovich lấy nước hoa xức trán rồi nhắm nghiền mắt lại. Mái đầu đẹp đẽ nhưng gày guộc của ông đặt trên chiếc gối trắng dưới ánh nắng chói chang chiếu rọi, trông chẳng khác nào mái đầu của một tử thi... Mà thật ra thì ông cũng đã là một kẻ chết rồi.
Chú thích:
[1] Vị khách lạ bí hiểm - một nhân vật bao trùm trong các tiểu thuyết của nữ văn sĩ nổi tiếng Anh Radcliffe Ann (1764 - 1823); nét đặc trưng cho các tác phẩm của bà là sự mô tả những cảm giác rùng rợn huyễn hoặc và những biến cố bí hiểm.
[2] Robert Peel (1788 - 1830): nhà hoạt động quốc gia Anh, đảng viên đảng Bảo thủ.