Chương 3 KHU ST. JAMES’S, LONDON
Sau này, Bộ Chỉ huy chống khủng bố của Sở Cảnh sát London thấy cần dành nhiều thời gian có giá trị hơn để nỗ lực xem lại những hoạt động vào buổi sáng hôm đó của một người có tên là Gabriel Allon, một nhân viên huyền thoại nhưng cũng bướng bỉnh của Cơ quan Tình báo Israel, giờ đã chính thức về hưu và sống thanh thản tại Anh Quốc. Dựa trên lời tường thuật của những người hàng xóm lắm chuyện đã chứng kiến, Gabriel Allon rời khỏi căn nhà ở Cornwall vài phút trước bình minh bằng chiếc Range Rover cùng với Chiara, cô vợ xinh đẹp gốc Ý của ông ta. Căn cứ vào hệ thống camera an ninh quan sát tại Anh, người ta cũng đã biết rằng hai vợ chồng đã đến trung tâm London, bằng một thời gian gần như kỷ lục và ơn trời can dự, họ đã có thể tìm ra một bãi đậu xe tại Piccadilly. Từ đó họ đã đi bộ đến Mason’s Yard, một khu thương mại được lát đá hình tứ giác ở khu St. James’s và đã có mặt tại Viện Mỹ thuật Isherwood. Theo hệ thống camera quan sát đặt trong sân, họ đã vào tòa nhà lúc 11:40 theo giờ London, mặc dù Maggie, cô thư ký không có khả năng mấy của Viện Mỹ thuật Isherwood, đã ghi sai trong sổ đăng ký là 11:45.
Từ năm 1968, nhờ những tay buôn các bức tranh có giá trị tầm cỡ ngang với những tấm trong bảo tàng viện của các họa sĩ bậc thầy người Ý và Hà Lan, Viện Mỹ thuật Isherwood đã từng có phòng trưng bày tại khu thời trang phố New Bond ở Mayfair. Nay cũng đồng chung cảnh ngộ với các tiệm khác như Hermes, Burberry và Cartier, phải dọn về khu St. James’s, tạm chiếm ba tầng lầu các kho chứa hàng xập xệ trước đây thuộc về Fortnum & Mason. Đối với những dân làng có tính cục bộ và hay bàn tán, thì có vẻ như phòng trưng bày luôn được xem như một nhà hát diễn hài kịch và bi kịch, có những lúc lên đến cao trào và cũng có khi xuống đến tận đáy và luôn phảng phất đâu đó bên dưới mùi vị một âm mưu. Điều này, thật sự do cá tính người chủ. Là người buôn bán tranh mỹ thuật, nhưng Julian Isherwood lại thích sở hữu tranh hơn là bán chúng và điều này là sai sót chí tử đã hủy hoại ông ta. Hậu quả là, một khối lượng lớn tranh trở thành một gánh nặng cho Julian Isherwood, điều này trong giới thương mại gọi là hàng tồn “chết” – là những bức tranh mà không một ai có thể trả với một giá tương xứng. Lời đồn nói rằng tài sản cá nhân của Isherwood có thể cạnh tranh với tài sản của Hoàng gia Anh Quốc. Ngay cả Gabriel, người phục chế tranh cho phòng trưng bày hơn ba mươi năm cũng chỉ biết một cách mơ hồ về tài sản của Isherwood.
Gabriel và Chiara gặp Isherwood tại văn phòng. Isherwood cao và mảnh khảnh, đang đứng nghiêng trước cái bàn đầy những chồng catalog và sách chuyên khảo cũ. Isherwood mặc một bộ quần áo sọc phấn màu xám, thắt cà vạt màu hoa oải hương, món quà từ cô bồ gần đây nhất, vừa tặng tối hôm trước. Như thường lệ, Isherwood có vẻ khó chịu, bộ mặt cố hữu mà ông ta luôn cố thể hiện. Cặp mắt buồn bã dán vào ti vi.
“Tôi đã biết tin. Hai người có nghe tin tức chứ?”
Gabriel chậm rãi gật đầu. Khi đi qua khu ngoại ô phía tây London cùng với Chiara, ông đã nghe được bản tin đầu tiên trên radio. Những hình ảnh trên màn hình giống một cách đáng kể những hình ảnh trong tâm trí Gabriel – những xác người quấn trong bọc nhựa, những người sống sót đầy máu me, những người chứng kiến che bàn tay lên khuôn mặt khiếp sợ. Quang cảnh này chẳng bao giờ thay đổi. Gabriel nghĩ rằng sẽ mãi là như thế.
Lướt tay lên mái tóc dài điểm bạc, Isherwood nói: “Tôi ăn trưa với một khách hàng ở Fouquet, chúng tôi chia tay ngay tại chỗ thằng điên khùng cho nổ bom. Nếu như hôm nay người khách hàng đổi giờ ăn trưa thì sao? Tôi đã có thể…”
Isherwood im bặt. Đây là phản ứng điển hình sau một vụ tấn công, Gabriel nghĩ vậy. Những người sống luôn tìm một vài mối liên quan đến người chết, cho dù là mong manh.
Isherwood tiếp: “Vụ nổ bom tại Copenhagen giết đi bao nhiêu trẻ con, anh có thể giải thích cho tôi vụ giết hại những trẻ con vô tội này nhằm phục vụ cho chính nghĩa nào không?”
“Nỗi sợ hãi,” Gabriel nói. “Chúng muốn chúng ta lo sợ.”
“Khi nào thì việc này sẽ kết thúc đây?” lắc đầu một cách kinh tởm, Isherwood hỏi. “Lạy Chúa, khi nào thì sự điên loạn này sẽ kết thúc?”
“Thay vì hỏi một câu như vậy, chúng ta phải biết chứ Julian.” Gabriel hạ thấp giọng và tiếp, “Xét cho cùng thì ông đã có một chỗ ngồi thuận lợi trong cuộc chiến này trong một thời gian dài.”
Isherwood mỉm cười buồn bã. Cái vỏ bề ngoài và tên họ chính hiệu Anh Quốc đã che giấu sự thật là Isherwood hoàn toàn không phải người Anh, ít ra là trên nguyên tắc. Mang quốc tịch và hộ chiếu Anh, đúng vậy, nhưng khai sinh ở Đức, lớn lên ở Pháp và theo tín ngưỡng Do Thái giáo. Chỉ một nhóm bạn đáng tin cậy mới biết là Isherwood được đưa vào London như một trẻ tị nạn năm 1942 sau khi đã được vợ chồng một người chăn cừu Basque mang từ dãy núi tuyết Pyrenees về. Hoặc giả là cha của Isherwood, Samuel Isakowitz, người buôn bán nổi tiếng những tác phẩm mỹ thuật tại Paris, đã bị sát hại cùng với mẹ Isherwood tại trại tập trung Sobibor. Mặc dù Isherwood đã cẩn thận giấu kín bí mật của quá khứ, câu chuyện về cuộc đào thoát đầy kịch tính khỏi Đức Quốc xã khi họ chiếm đóng châu Âu đã đến tại Cơ quan Tình báo Israel và vào khoảng giữa những năm 1970, trong làn sóng quân Palestine khủng bố Israel tại châu Âu, Isherwood đã được tuyển dụng như một sayan , một tình nguyện viên. Isherwood chỉ có mỗi một nhiệm vụ – hỗ trợ việc xây dựng và duy trì vỏ hoạt động của một người phục chế tranh và cũng là một sát nhân tên là Gabriel Allon.
“Anh hãy giữ điều này trong tâm trí nhé,” Isherwood nói. “Giờ đây, anh làm việc cho tôi, không phải cho họ. Đây không phải là vấn đề của anh, không còn nữa,” Isherwood chĩa cái điều khiển về phía ti vi và sự hỗn loạn tại Paris hay Copenhagen biến mất khỏi màn hình, ít ra là trong một lúc. “Chúng ta hãy xem một cái gì đẹp hơn được không?”
Vì không gian hạn chế của phòng trưng bày nên Isherwood đã phải sắp xếp giang sơn của mình theo chiều dọc – tầng trệt là kho hàng, tầng hai cho văn phòng kinh doanh và trên tầng ba là một phòng trưng bày trang trọng dựa theo thiết kế của phòng trưng bày nổi tiếng Paul Rosenberg tại Paris, tại đó Julian đã trải qua những giờ phút hạnh phúc khi còn là một đứa bé. Khi họ vào phòng, ánh nắng giữa trưa đang chiếu nghiêng qua giếng trời và rọi sáng một bức tranh sơn dầu kê trên một bệ phủ vải đen. Đó là bức vẽ chân dung Đức Mẹ và Chúa Hài đồng với Mary MagdaleneMadonna and Child with Mary Magdalene , dựa trên phông màu tối, hiển nhiên là theo trường phái hội họa Hà Lan. Chiara cởi áo khoác da và ngồi trên chiếc ghế dài không lưng tựa, thiết kế theo phong cách bảo tàng, đặt ở giữa phòng. Gabriel đứng ngay trước bức tranh, một tay dưới cằm, đầu hơi nghiêng về một phía.
“Ông đã tìm đâu ra bức tranh này vậy?”
“Trong một đống đá vôi dọc theo bờ Norfolk.”
“Đống đá vôi này có chủ chứ?”
“Hắn yêu cầu được giấu tên. Đủ để thấy rằng hắn từ một gia đình có tước hiệu, tài sản của hắn rất lớn và tiền mặt thì đang hao dần ở mức độ báo động.”
“Thế cho nên hắn đã yêu cầu ông mua một vài bức tranh nhằm giúp hắn sinh sống thêm một năm nữa.”
“Với cái đà tiêu xài của hắn thì tôi cho hắn thêm hai tháng nữa.”
“Ông đã mua bức tranh này với giá là bao nhiêu?”
“Hai mươi ngàn.”
“Ông thật là rộng lượng đó Julian,” Gabriel liếc nhìn Isherwood và tiếp, “tôi nghĩ rằng ông cũng đã mua thêm vài bức nữa để che dấu vết của mình chứ.”
“Sáu bức không có giá trị,” Isherwood thú nhận. “Nhưng linh cảm của tôi về bức này là đúng, xứng đáng để đầu tư vào.”
“Nguồn gốc?” Gabriel hỏi.
“Bức tranh được tổ tiên người chủ mua tại Veneto trong chuyến du lịch vào đầu thế kỷ 19. Từ đó bức tranh thuộc về gia đình họ.”
“Còn hiện giờ, ai thẩm định bức tranh?”
“Xưởng Palma Vecchio.”
“Thật à?” Gabriel hỏi, giọng ngờ vực. “Dựa vào ai vậy?”
“Người Ý, nhà chuyên gia thẩm định mỹ thuật. Là người môi giới vụ mua bán.”
“Hắn có mù không?”
“Chỉ một mắt thôi.”
Gabriel mỉm cười. Nhiều người Ý tư vấn tranh cho giới quý tộc người Anh trong những chuyến du lịch của họ. Những người này là những người bịp bợm thường thực hiện những cuộc mua bán nhanh những bức tranh sao chép vô giá trị được gán cho những bậc thầy của Florence và Venice. Tuy nhiên, đôi khi họ cũng môi giới cho những tác phẩm có giá trị. Isherwood nghĩ rằng bức tranh thuộc vào trường hợp thứ hai. Và Gabriel cũng thế. Ông lấy ngón trỏ làm bật vết bụi bẩn đã bám cả thế kỷ trên mặt thánh Magdalene.
“Bức tranh được treo ở đâu vậy? Trong mỏ than?”
Gabriel bóc những lớp vẹc ni đã đổi màu ra và nhận thấy, gần như chắc chắn rằng bức tranh được hình thành bằng mát tít hoặc nhựa dammar hòa tan với nhựa thông. Tháo bỏ đi là một quá trình cần cù và cẩn thận sử dụng hỗn hợp hiệu chuẩn acetone, methyl proxitol và khoáng sản. Gabriel kinh sợ khi nghĩ đến những gì đang chờ ông một khi lớp vẹc ni được lấy đi: nhìn sẽ giống như những quần đảo pentimento , một vùng rộng lớn đầy vết nứt và vết nhăn, hàng loạt sơn đã mất đi và được che giấu dưới những nét vẽ phục chế trước đây. Rồi lại còn tình trạng của vải bạt bị chùng xuống một cách đáng kể theo thời gian. Muốn cứu chữa bức tranh thì phải lót lại, một quy trình nguy hiểm, áp dụng hơi nóng, hơi ẩm và sức ép. Bất cứ người phục chế tranh nào cũng đều bị sẹo khi lót lại tranh. Đã có lần Gabriel phá hủy một phần lớn bức tranh của Domenico Zampieri do sử dụng bàn ủi ở một nhiệt độ sai. Bức tranh được phục chế hoàn toàn, nhìn như nguyên thủy đối với mắt người trần, nhờ vào nỗ lực hợp tác giữa Zampieri và phòng tranh của Gabriel Allon.
“Sao?” Isherwood hỏi lại. “Ai đã vẽ bức tranh chết tiệt này?”
Gabriel ra chiều cân nhắc. “Tôi cần kiểm tra bằng X-quang để tìm ra.”
“Trưa nay, người của tôi sẽ tạt qua để lấy những bức tranh. Nhưng chúng tôi đều biết anh không cần họ để có một nhận định ban đầu về nguồn gốc của bức tranh. Anh cũng như tôi thôi. Anh đã tiếp cận với tranh cả trăm ngàn năm nay rồi. Anh biết nó khi anh nhìn thấy nó.”
Gabriel lục trong túi áo khoác một kính lúp nhỏ và lấy ra xem xét những nét vẽ. Hơi cúi về phía trước, ông có thể cảm nhận hình dáng quen thuộc của khẩu Beretta 9mm thúc vào hông trái của mình. Vì đã làm việc với Cơ quan Tình báo Anh nhằm phá hoại chương trình hạt nhân của Iran, ông được phép mang theo vũ khí bất cứ lúc nào để phòng thân. Ông cũng được cấp một hộ chiếu Anh, có thể sử dụng khi du lịch ra nước ngoài, với điều kiện là Gabriel không còn làm việc cho cơ quan tình báo Israel nữa. Không còn cơ hội đó nữa. Sự nghiệp lừng lẫy của Gabriel Allon cuối cùng đã chấm dứt. Ông không còn là thiên thần báo thù của Israel nữa. Ông là người phục chế tranh làm việc cho Phòng Mỹ thuật Isherwood và Anh Quốc là quê hương của Gabriel.
“Anh linh cảm điều gì,” Isherwood nói. “Tôi có thể nhìn thấy điều đó trong cặp mắt màu xanh của anh.”
“Phải,” Gabriel trả lời, vẫn mê mải với những nét vẽ, “nhưng trước tiên, tôi cần thêm một ý kiến thứ hai.”
Ông ngoái lại liếc nhìn Chiara. Nàng đang đùa với một sợi tóc ngỗ nghịch, một thoáng kinh ngạc trên mặt. Ở tư thế hiện giờ, Chiara nhìn rất giống người đàn bà trong tranh. Với Gabriel điều này không gây ngạc nhiên mấy. Là hậu duệ những người Do Thái bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha năm 1492, Chiara đã được nuôi dưỡng trong khu ổ chuột cổ ở Venice. Và rất có thể là một vài vị tổ tiên của nàng đã làm mẫu cho những nghệ sĩ bậc thầy như Bellini, Veronese và Tintoretto.
“Em nghĩ sao?” Gabriel hỏi.
Chiara đến trước bức tranh, tặc lưỡi như tiếc cho tình trạng hư hại của bức tranh. Mặc dù nàng đã học về lịch sử Đế chế La Mã tại đại học, hỗ trợ cho Gabriel trong một số lần phục chế tranh, và, trong quá trình này, nhờ vào chính mình, Chiara đã trở thành một nhà sử học vượt trội.
“Đây là một minh họa tuyệt vời của Cuộc Đàm đạo thiêng liêngHoly Conversation hoặc Cuộc trò chuyện thiêng liêngSacra Conversazione, một cảnh nhóm họp bình dị của những nhân vật trong một quang cảnh mang tính thẩm mỹ cao. Với sự hiểu biết của những kẻ mù mờ, thì Palma Vecchio được xem như người sáng tạo ra bố cục này.”
Tiếng Ý:.
“Cô nghĩ sao về bức tranh?” Isherwood hỏi, như một luật sư dẫn dắt người làm chứng đồng cảm.
“Bức tranh là một thành công của Palma,” Chiara đáp lại. “Nét vẽ của ông không có đối thủ, nhưng không bao giờ được nhìn nhận như một nhà vẽ tranh có khả năng đặc biệt, ngay cả bởi những người đương thời của ông.”
“Còn người đàn bà làm mẫu cho Đức Mẹ?”
“Trừ phi tôi sai, điều này không chắc lắm, tên cô ta là Violante. Cô ta đã làm mẫu cho một số tranh của Palma. Nhưng cũng còn có một họa sĩ nổi tiếng khác ở Venice, lúc bấy giờ, theo lời kể lại cũng rất thích cô ta. Tên ông ta là…”
“Tiziano Vecellio,” Isherwood nối tiếp suy nghĩ của Chiara. “Được biết đến nhiều hơn dưới tên Titian.”
“Chúc mừng Julian,” Gabriel mỉm cười, nói. “Ông vừa gài bẫy mua được một bức tranh của Titian với một số tiền không đáng kể là 20 ngàn bảng. Giờ ông chỉ cần tìm một người phục chế có khả năng trả lại hình dáng cho bức tranh.”
“Bao nhiêu?” Isherwood hỏi.
Gabriel cau mày. “Việc này đòi hỏi nhiều công phu đấy.”
“Bao nhiêu?” Isherwood lặp lại.
“Hai trăm ngàn.”
“Tôi có thể tìm một người với nửa giá thôi.”
“Đúng vậy. Nhưng cả hai ta đều nhớ chuyện đã xảy ra lần cuối khi ông thử làm điều đó.”
“Anh có thể bắt đầu công việc sớm nhất là bao giờ?”
“Tôi sẽ phải kiểm tra lại lịch trước khi có bất cứ ràng buộc nào.”
“Tôi sẽ ứng trước cho anh một trăm ngàn.”
“Trong trường hợp này thì tôi có thể bắt đầu ngay.”
“Tôi sẽ gửi bức tranh đến Cornwall ngày mốt,” Isherwood nói. “Vấn đề là bao giờ tôi lấy lại được bức tranh?”
Gabriel không trả lời. Ông nhìn đồng hồ đeo tay một lúc, như thể đồng hồ chỉ giờ không chính xác và nghiêng mặt nhìn về phía cửa sổ trên mái một cách đăm chiêu.
Isherwood vỗ nhẹ lên vai Gabriel và nói: “Không phải là vấn đề của anh. Không còn nữa.”