← Quay lại trang sách

Chương 7 SỞ CẢNH SÁT THỦ ĐÔ, LONDON

Đối với một nhân viên tình báo chuyên nghiệp, kể cả người đã về hưu, thì có vài lỗi lầm còn đau khổ hơn là lọt vào tay chính quyền địa phương. Gabriel đã sống rất lâu trong những nơi khốn cùng, giữa thế giới công khai và thế giới ngầm, ông đã phải chịu đựng kiếp sống như thế thường xuyên hơn là những bạn đồng nghiệp. Kinh nghiệm dạy cho Gabriel rằng đối với cả trong những trường hợp như vậy, có một quy luật bất thành văn, một loại vũ điệu Kabuki được cho phép tự mình quyết định trước khi có sự can thiệp của cấp cao hơn. Ông biết rất rõ trình tự và những người tiếp đãi ông cũng biết.

Gabriel bị bắt chỉ vài phút sau vụ tấn công và nhanh chóng được chở đến New Scotland Yard, trụ sở của Sở Cảnh sát London. Khi đến ông được dẫn đến căn phòng không cửa sổ để điều tra. Những vết cắt và trầy da trên người Gabriel được chăm sóc và họ mang cho ông một tách trà mà Gabriel không đụng đến. Không lâu sau, một điều tra viên cao cấp thuộc Bộ chỉ huy chống Khủng bố đến. Anh ta xem xét giấy tờ tùy thân của Gabriel một cách cẩn trọng và cố gắng xem xét chuỗi các sự kiện đưa “ông Rossi” đến việc rút súng ra tại Covent Garden, vào giây phút trước khi tên khủng bố cảm tử cho nổ bom. Gabriel cũng muốn đặt một vài câu hỏi. Ông muốn biết tại sao hai cảnh sát của Bộ Chỉ huy vũ khí chuyên giaSO19 thuộc Sở Cảnh sát Thủ đôScotland Yard lại chọn khống chế ông thay vì một tên khủng bố rõ ràng là sắp thực hiện một vụ thảm sát hàng loạt. Thay vì trả lời từng câu hỏi của điều tra viên, ông đọc một số điện thoại. “Anh gọi số này đi,” ngón tay gõ vào chỗ điều tra viên ghi chép trong sổ, ông nói. “Chuông điện thoại sẽ reo ở một tòa nhà rộng lớn không xa đây mấy. Anh sẽ biết tên người trả lời. Ít ra anh nên biết người ấy.”

Gabriel không biết danh tính của sĩ quan gọi điện và thời gian cuộc gọi được thực hiện. Ông chỉ biết việc giam giữ tại New Scotland Yard kéo dài hơn cần thiết. Gần nửa đêm, điều tra viên tháp tùng ông qua một loạt hành lang đèn sáng choang để ra cổng. Trong tay điều tra viên cầm một phong bì đựng tư trang của Gabriel. Xét qua kích cỡ và hình dáng thì khẩu Beretta 9mm không có bên trong phong bì.

Bên ngoài, thời tiết dễ chịu của buổi chiều đã nhường chỗ cho trận mưa như trút. Một chiếc Jaguar màu sẫm, máy nổ nhỏ, đang đậu ở nơi sân chờ có gắn kính. Điều tra viên đưa phong bì cho Gabriel. Ông mở cửa sau xe. Ngồi vắt chéo chân một cách khoan thai bên trong xe là một người đàn ông với phong cách tương xứng với công việc. Ông ta mặc một bộ màu xám tro vừa vặn một cách hoàn hảo, đeo cà vạt màu bạc phù hợp với màu tóc. Thường thì cặp mắt xanh nhạt của ông ta với ánh mắt bí hiểm khó đoán, nhưng giờ thì biểu lộ sự căng thẳng của một đêm dài và khó ngủ. Là phó giám đốc của MI5, Graham Seymour mang một trách nhiệm nặng nề, đó là bảo vệ mảnh đất Anh Quốc khỏi lực lượng của phe Hồi giáo cực đoan. Và một lần nữa, mặc cho những nỗ lực tốt nhất của MI5, phe Hồi giáo cực đoan lại thắng.

Mặc dù Gabriel và ông ta có một mối quan hệ lịch sử và lâu dài trong công việc, nhưng Gabriel không biết nhiều về đời sống cá nhân của Graham Seymour. Ông biết Helen, vợ Seymour rất được ông tôn thờ. Con trai ông là người quản lý tiền của khách hàng trong một chi nhánh của Công ty cung cấp tài chính quan trọng Anh Quốc tại New York. Ngoài ra, những gì Gabriel biết về đời sống riêng tư của Seymour được cung cấp qua chồng hồ sơ dày cộm tại Văn phòng. Seymour là di tích sống cho quá khứ hào hùng của Anh Quốc, một sản phẩm của tầng lớp thượng trung lưu được nuôi dưỡng, giáo dục và đào tạo để làm lãnh đạo. Ông tin có Chúa nhưng không mấy sốt sắng. Ông tin tưởng vào đất nước của mình nhưng không mù quáng trước những sai lầm. Ông chơi golf và những môn thể thao khác giỏi nhưng sẵn sàng thua một đối thủ yếu hơn để phục vụ cho một sứ mạng cao cả hơn. Ông là người được kính nể và quan trọng nhất, ông là người đáng tin cậy – một đức tính hiếm có trong giới gián điệp và cảnh sát chìm.

Tuy nhiên, Graham Seymour không phải là người kiên nhẫn vô hạn, bằng chứng là vẻ nghiêm nghị của ông khi chiếc Jaguar ra đến ngoài đường. Ông lấy bản sao tờ báo buổi sáng Telegraph từ túi ghế sau và vất xuống đùi Gabriel. Tiêu đề tờ báo ghi: KHỦNG BỐ NGỰ TRỊ. Bên dưới là ba bức hình miêu tả ba vụ tấn công. Gabriel tìm bức hình Covent Garden xem trong đó có sự hiện diện của ông không, nhưng hình chỉ cho thấy những nạn nhân thôi. Ông nghĩ, đây là hình ảnh của sự thất bại – mười tám người chết, hàng chục người bị thương, trong đó có viên cảnh sát đã ngăn chặn ông. Tất cả những điều này xảy ra vì Gabriel đã không bắn được.

“Một ngày chết tiệt,” Seymour nói một cách mệt mỏi. “Tôi nghĩ chỉ còn thêm một điều nữa làm nó tệ hơn là báo chí tìm ra tung tích anh. Chờ đến khi những nhà lý luận về thuyết âm mưu xong việc, họ sẽ làm cho thế giới Hồi giáo tin rằng các cuộc tấn công đã được Sở Cảnh sát mưu tính và thực hiện.”

“Ông có thể chắc chắn là điều này đã xảy ra rồi.” Gabriel trả lại tờ báo và hỏi: “Vợ tôi đâu?”

“Cô ấy ở khách sạn. Tôi cho một đội canh chừng cô ta ngay dưới sảnh.” Ngừng một lát, Seymour tiếp, “Không cần phải nói, anh không làm cô ấy hài lòng lắm.”

“Sao ông biết?” Tai của Gabriel vẫn còn ù do chấn động của vụ nổ. Ông nhắm mắt lại và hỏi làm cách nào mà đội SO19 lại có thể tìm ra ông nhanh vậy.

“Như anh biết, chúng tôi sử dụng một mảng kỹ thuật rộng lớn.”

“Ví dụ như điện thoại di động của tôi và mạng lưới camera theo dõi của các ông.”

“Chính xác,” Seymour nói. “Chúng tôi có thể tìm ra vị trí chính xác của anh chỉ sau vài giây sau khi Chiara gọi. Chúng tôi chuyển thông tin cho Bộ chỉ huy GoldBộ Chỉ huy về xử lý thông tin, dữ liệu, trung tâm hoạt động của Sở Cảnh sát và họ nhanh chóng gửi ngay tức thì hai đội cảnh sát được huấn luyện đặc biệt sử dụng súng đến hiện trường.”

“Chắc hẳn họ phải ở vùng lân cận.”

“Đúng vậy,” Seymour xác nhận. “Sau những vụ tấn công tại Paris và Copenhagen chúng tôi luôn trong tình trạng báo động cao. Một số đội đã được rải đi đến những khu thương mại và những điểm mà du khách thường tụ tập.”

“Vậy thì tại sao họ lại hạ tôi thay vì tên đánh bom cảm tử?”

“Bởi vì cả Scotland Yard và cả Cơ quan An ninh đều không muốn một thất bại nữa như vụ Menezes. Hậu quả cái chết của anh ta dẫn đến một số chỉ thị mới và quy trình được đưa ra để bảo đảm điều tương tự sẽ không xảy ra nữa. Đủ để nói rằng một cảnh báo duy nhất cũng không thể đưa đến hành động giết người – cho dù nguồn tin đó do Gabriel Allon cung cấp.”

“Thế nên hậu quả là mười tám người vô tội đã chết.”

“Nếu như hắn không phải là khủng bố? Nếu như hắn chỉ là một diễn viên đường phố, hoặc một kẻ tâm thần? Chúng ta sẽ bị xử nặng.”

“Nhưng hắn không phải là diễn viên đường phố và cũng không phải là kẻ tâm thần, Graham. Hắn là tên đánh bom cảm tử. Và tôi đã nói với ông như vậy.”

“Làm sao anh biết?”

“Hắn cũng có thể mang một dấu hiệu cho thấy ý đồ của hắn.”

“Rõ ràng đến thế sao?”

Gabriel liệt kê những yếu tố đầu tiên đã khơi dậy sự nghi ngờ của ông và giải thích sự tính toán đã dẫn ông đi đến kết luận là tên khủng bố có ý định cho nổ lúc 2:37. Seymour lắc đầu một cách chậm chạp.

“Tôi không còn nhớ tôi đã tốn biết bao nhiêu giờ để huấn luyện cho nhân viên nhận diện những tên khủng bố, đó là chưa kể hàng triệu bảng Anh đổ vào phần mềm nhận dạng hành vi cho hệ thống camera quan sát. Thế mà một gã jihad đánh bom cảm tử ngang nhiên đến Covent Garden, lại dường như không một ai nhận ra được. Không một ai, trừ anh, lẽ dĩ nhiên.”

Seymour im lặng suy nghĩ một lúc lâu. Họ đang đi về hướng bắc, dọc theo dãy nhà liền kề hoa lệ được chiếu sáng của phố Regent. Mệt mỏi, Gabriel dựa đầu vào cửa kính và hỏi không biết đã nhận diện được gã đánh bom chưa.

“Tên hắn là Farid Khan. Bố mẹ gã đến từ Lahore và di dân qua Anh Quốc vào những năm 70, nhưng Farid sinh ra ở London, chính xác là ở Stepney Green,” Seymour tiếp. “Giống như nhiều người Hồi giáo ở Anh cùng thế hệ, hắn từ bỏ tín ngưỡng ôn hòa và phi chính trị của bố mẹ và trở thành một người Hồi giáo. Vào cuối những năm 90, hắn dùng quá nhiều thời gian đến đền thờ Hồi giáo phía đông London trên đường Whitechapel. Chẳng bao lâu, hắn trở thành thành viên có phẩm hạnh tốt trong những nhóm cấp tiến Hizb ut-Tahrir và al-Muhajiroun.”

“Có vẻ như ông có hồ sơ về hắn.”

“Đúng thế,” Seymour nói, “nhưng không phải vì những lý do mà anh nghĩ. Anh biết không, Farid Khan là ánh sáng, niềm hy vọng của chúng tôi cho tương lai. Hoặc theo như chúng tôi nghĩ.”

“Ông nghĩ là ông sẽ sửa đổi hắn?”

Seymour gật đầu. “Không lâu sau ngày 11/9, Farid gia nhập một nhóm có tên gọi là Khởi Đầu Mới. Mục đích của nhóm là tẩy não những chiến binh và cho họ hòa nhập vào xu hướng chủ đạo Hồi giáo và cộng đồng người Anh. Farid được xem như một trong những thành công của họ. Hắn cạo râu. Hắn quan hệ chặt chẽ với bạn bè cũ. Ở đại học King’s, hắn đậu gần đầu lớp và tìm được một công việc với mức lương hậu hĩnh trong một công ty quảng cáo nhỏ ở London. Một vài tuần trước, hắn đính ước với một phụ nữ là hàng xóm cũ của hắn.”

“Cho nên ông đánh dấu hắn trong bản danh sách?”

“Một cách nào đó,” Seymour nói. “Giờ thì tất cả là một sự lừa dối tinh tế. Farid chính xác là một quả bom hẹn giờ chỉ chờ để nổ.”

“Ông có biết ai là người kích hoạt hắn không?”

“Chúng ta vừa nói chuyện vừa xem xét kỹ những dữ liệu trong điện thoại và máy tính của hắn cùng với băng video mà hắn để lại. Rõ ràng là có liên quan đến những vụ nổ tại Paris và Copenhagen. Những vụ nổ này được phối hợp bởi một số các nhóm nhỏ trong cơ quan Trung ương al-Qaeda hay bởi một mạng lưới mới, bây giờ phải cân nhắc kỹ lưỡng, cho dù như thế nào đi nữa thì đó không còn là vấn đề của anh. Vai trò của anh trong vụ này đã chính thức kết thúc.”

Chiếc Jaguar băng qua quảng trường Cavendish và ngừng lại ngoài cửa chính của khách sạn Langham.

“Trả súng lại cho tôi.”

“Chuyện này tính sau,” Seymour nói.

“Tôi còn phải ở đây bao lâu nữa?”

“Scotland Yard muốn anh ở lại London cho đến hết cuối tuần. Anh có thể quay về ngôi nhà thôn dã bên cạnh biển vào thứ Hai và không suy nghĩ gì hết ngoài bức tranh Titian của anh.”

“Làm sao ông biết về bức tranh của Titian?”

“Tôi biết mọi thứ. Mọi thứ trừ việc ngăn một tên Hồi giáo sinh ra ở Anh thực hiện vụ thảm sát hàng loạt ở Covent Garden.”

“Tôi đã có thể ngăn hắn lại, Graham ạ.”

“Phải,” Seymour lạnh nhạt nói. “Và chúng tôi muốn trả ơn anh bằng cách xé anh ra từng mảnh.”

Gabriel ra khỏi xe không nói một lời. “Vai trò của anh đã chính thức kết thúc,” ông lẩm bẩm khi vào sảnh. Ông lặp đi lặp lại câu này như một câu thần chú.