← Quay lại trang sách

Chương 9 BÁN ĐẢO LIZARD, CORNWALL

Với sự đồng thuận của Scotland Yard, bộ Nội vụ và chính Ngài thứ trưởng Anh, Gabriel và Chiara quay về Cornwall ba ngày sau vụ đánh bom ở Covent Garden. Bức tranh sơn dầu Đức Mẹ và Chúa Hài đồng với Mary Magdalene , 110 x 92 cm được giao đến lúc 10 giờ sáng hôm sau. Sau khi cẩn thận lấy bức tranh từ cái thùng bảo vệ ra, Gabriel đặt lên giá vẽ cũ bằng gỗ sồi trong phòng khách và dành cả thời gian còn lại của buổi trưa để nghiên cứu lớp màu chụp qua X-quang. Những nét vẽ quang phổ ma quái chỉ củng cố thêm phân tích của ông về tính xác thực của bức tranh. Bức tranh là của Titian và còn là một tuyệt phẩm nữa.

Đã nhiều tháng trôi qua từ khi đụng vào một bức tranh, Gabriel rất nóng lòng muốn bắt tay ngay vào việc. Thức dậy sớm vào buổi sáng hôm sau, Gabriel pha một chén cà phê sữa và ngay tức thì lăn xả vào việc căng lại lớp vải vẽ, một công việc đòi hỏi sự tinh xảo. Giai đoạn thứ nhất là kết dính giấy lụa lên trên bức tranh để tránh mất lớp sơn trong quá trình phục chế. Có nhiều loại keo khác nhau bán ở chợ thích hợp cho công việc này. Nhưng Gabriel thích trộn loại keo riêng của ông, một loại hỗn hợp ông đã học từ Umberto Conti, một bậc thầy trong làng phục chế tranh ở Venice. Hỗn hợp là sự pha trộn của da thỏ vê lại hòa tan trong nước, giấm, mật bò và mật đường.

Gabriel đun cho sủi bọt hỗn hợp có mùi độc hại trong lò cho đến khi có sự đồng bộ như sirô, và trong khi chờ hỗn hợp nguội lại, ông xem tin tức buổi sáng trên BBC. Farid Khan giờ đã nổi tiếng ở Anh Quốc. Với thời gian chính xác cuộc tấn công của Farid Khan, Scotland Yard và Cơ quan Tình báo Anh làm việc với giả thuyết là nó có liên quan đến những vụ xảy ra ở Paris và Copenhagen, vẫn chưa rõ tên đánh bom thuộc phe khủng bố nào. Các nhà bình luận trên ti vi đang gay gắt, một bên thì cho rằng những vụ tấn công được dàn dựng bởi giới lãnh đạo thuộc nhóm cũ al-Qaeda ở Pakistan, một bên thì cho rằng vụ nổ bom là do một mạng lưới khủng bố mới hiện vẫn còn là một chấm nhỏ trên ra-đa của cơ quan tình báo phương Tây. Cho dù thế nào đi nữa thì giới quan chức châu Âu đang chuẩn bị tinh thần cho nhiều vụ đẫm máu nữa. Trung tâm Phối hợp Phân tích Khủng bố của MI5 đã nâng mối đe dọa lên mức độ “nghiêm trọng”, có nghĩa là một vụ tấn công khác đang có thể sắp xảy ra.

Gabriel cố tình tập trung nhiều nhất vào báo cáo về những câu hỏi đã được đặt ra cho Scotland Yard vài phút trước khi vụ tấn công xảy ra. Đại biểu chính của Sở Cảnh sát thủ đô, thận trọng cho biết là đã nhận được lời cảnh báo về một người đàn ông đáng nghi ngờ, mặc áo khoác quá khổ, đi về hướng Covent Garden. Rất tiếc, vị quan chức tuyên bố tiếp, lời cảnh báo nhỏ này không đáp ứng tính đặc thù cần thiết của một hành động giết người để được quan tâm. Vị quan chức xác nhận là hai cảnh sát SO19 đã được cử đến Covent Garden nhưng cũng cho biết rằng dựa theo chính sách hiện hành, hai cảnh sát này không có sự lựa chọn nào khác là không nổ súng. Còn bản báo cáo nói rằng có thấy người dùng súng, cảnh sát đã thẩm vấn một người đàn ông liên quan và xác định rằng đó không phải là một khẩu súng mà chỉ là một máy ảnh. Vì lý do đảm bảo riêng tư của dân chúng nên không thể tiết lộ danh tính của ông ta. Giới báo chí dường như chấp nhận luận điệu giải thích này của Sở Cảnh sát, và những người theo chủ nghĩa tự do cũng thế, họ vỗ tay khen ngợi cảnh sát đã kiềm chế được, ngay cả khi việc này dẫn đến cái chết của mười tám sinh mạng những người vô tội.

Gabriel tắt ti vi khi Chiara bước vào bếp. Nàng mở ngay cửa sổ để xua đi mùi hôi thối của mật bò và giấm, và trách Gabriel vì đã làm hỏng cái chảo bằng thép không gỉ mà nàng ưa thích. Gabriel chỉ mỉm cười và chấm đầu ngón tay trỏ vào hỗn hợp giờ đã nguội để có thể sử dụng. Chiara đứng phía sau Gabriel và nhìn ông quệt một lớp keo lên mặt vẹc ni và dán vài mảnh giấy lụa lên bề mặt. Các nét vẽ của Titian đã được che phủ cho đến khi việc tái lót hoàn tất.

Gabriel không còn việc gì để làm thêm sáng nay ngoài việc thỉnh thoảng kiểm tra bức tranh xem keo đã khô tới mức phù hợp chưa, ông ngồi trên vọng lâu trông ra biển, máy tính xách tay đặt trên đùi, lướt Internet để thu thập thêm thông tin về ba vụ đánh bom. Ông định kiểm tra với Đại lộ King Saul trước, nhưng thấy có giải pháp tốt hơn. Gabriel đã không báo cho Tel Aviv việc chạm mặt với khủng bố ở Covent Garden, bây giờ mà liên lạc với Đại lộ King Saul chỉ tổ tạo cơ hội cho những người đồng nghiệp trước đây của ông có cớ để xâm nhập vào cuộc sống riêng tư của bản thân. Từ kinh nghiệm, Gabriel đã biết rằng nên đối xử với Văn phòng như một người tình bị bỏ rơi. Sự liên lạc nên giữ ở mức tối thiểu và là cách ứng xử tốt nhất ở những chỗ công cộng, nơi xảy ra cảnh hỗn độn không thích hợp.

Chẳng bao lâu trước trưa, cơn gió còn lại của nửa đêm thổi qua vịnh Gunwalloe, nhường chỗ cho bầu trời xanh trong sáng. Sau khi kiểm tra bức tranh lần cuối, Gabriel lấy áo khoác có mũ và đi bốt leo núi để đi bộ dọc theo những mỏm đá như thường ngày. Trưa hôm trước, Gabriel đã đi về phía bắc dọc theo con đường ven biển đến đồi cát Praa. Hôm nay, Gabriel leo lên cái gờ sau nhà và đi hướng nam về phía mũi Lizard.

Chẳng bao lâu, cảnh thần tiên của bờ biển Cornwall xua tan những hình ảnh của những người chết và bị thương ở Covent Garden trong tâm trí Gabriel. Thực sự, khi Gabriel đến gần câu lạc bộ Golf Mullion, hình ảnh kinh hoàng cuối cùng đã bị che giấu và gần như xóa sạch bên dưới một lớp sơn. Khi Gabriel tiến sâu về phía nam, qua dãy núi của mỏm Polurrian, ông chỉ còn nghĩ đến công việc phải làm với bức tranh của Titian. Ngày mai, ông sẽ cẩn thận cạo nước sơn từ khung tranh và sau đó dán chặt tấm vải hư vào một tấm vải lanh rộng của Ý, ép chặt vào đúng vị trí bằng một bàn ủi mà thợ may dùng. Sau đó sẽ đến công việc lâu và khó khăn nhất của nghề phục chế tranh – bỏ đi những mảnh vẹc ni rạn nứt, vàng úa để bù đắp lại những chỗ vẽ bị mất theo thời gian và theo lực căng. Một số nhà phục chế có khuynh hướng bù đắp nhiều cho những chỗ thiếu của tranh, nhưng Gabriel được biết đến trong thế giới mỹ thuật về sự khéo tay khi bù đắp và về khả năng bắt chước kỳ lạ những nét vẽ của các bậc thầy. Gabriel tin rằng trách nhiệm của một nhà phục chế là đến và đi mà không để lại dấu vết ngoài việc đưa bức tranh trở về thời vàng son của nó.

Khi Gabriel đến cuối vịnh Kynance ở phía bắc, mặt trời đã bị một dải mây đen che khuất, và gió biển trở nên rất lạnh. Là một người quan sát sắc bén về thời tiết thất thường của vùng Cornwall, Gabriel có thể thấy là “khoảng thời gian sáng ngời”, theo như những nhà khí tượng học đặt tên cho thời gian mặt trời chiếu sáng, sắp kết thúc đột ngột. Ông dừng chân lại một chút, suy nghĩ xem nên lánh mưa ở chỗ nào. Về phía đông, làng Lizard xuất hiện qua một cảnh quan như một miếng vải chắp nối nhiều màu sắc. Ngay phía trước là mũi Lizard. Gabriel chọn con đường thứ hai. Gabriel không muốn rút ngắn buổi đi dạo vì một ngọn gió tầm thường. Vả lại, phía trên vách đá là một quán cà phê ngon, ở đó Gabriel có thể chờ cơn bão qua đi bằng cái bánh nướng mới ra lò và một ấm trà.

Ông kéo cao cổ áo và băng qua làn sương muối của vịnh khi những hạt mưa đầu tiên bắt đầu rơi. Quán cà phê hiện ra trong màn sương. Ở chân vách đá, ẩn mình ở chỗ khuất gió của nhà thuyền đổ nát là một thanh niên khoảng 25, tóc ngắn và cặp kính mát lên tóc. Một người đàn ông khác đang thơ thẩn trên đài quan sát, mắt dán vào ống nhòm kính viễn vọng chạy bằng đồng xu. Gabriel biết chắc chắn rằng kính viễn vọng này đã nhiều tháng không hoạt động.

Ông đi chậm lại và nhìn về phía quán cà phê ngay khi một người đàn ông thứ ba bước ra sân thượng. Hắn đội một cái mũ không thấm nước kéo sụp xuống lông mày và đeo một cặp kính không gọng mà các nhà trí thức người Đức và những chủ ngân hàng Thụy Sĩ ưa thích. Thái độ của hắn biểu lộ sự bồn chồn – một biểu hiện của cấp điều hành bận rộn mà bị vợ ép đi nghỉ. Hắn nhìn chằm chằm Gabriel một lúc lâu trước khi giơ cao tay lên nhìn đồng hồ. Gabriel định đi về hướng ngược lại. Thay vì như vậy, Gabriel cúi xuống nhìn chằm chằm con đường mòn và tiếp tục đi. Ông nghĩ, tốt hơn nên làm như vậy để tránh rắc rối có thể xảy ra.