Chương 10 MŨI LIZARD, CORNWALL
“Anh có thực sự cần gọi bánh nướng không?” Uzi Navot bực bội hỏi Gabriel.
“Chúng ngon nhất ở Cornwall. Kem đặc cũng vậy.”
Navot đứng im. Gabriel mỉm cười thông cảm.
“Bella muốn ông xuống bao nhiêu nữa?”
“Hai ký rưỡi. Rồi tôi sẽ phải duy trì mức cân nặng này.”
Navot tiếp với vẻ u sầu, như thể sắp tuyên bố một bản án tù. “Làm sao tôi có thể có được sự chuyển hóa thức ăn như anh? Vợ anh là một đầu bếp giỏi nhất thế giới, vậy mà anh vẫn giữ được thân hình của một thanh niên hai mươi lăm tuổi. Còn tôi? Tôi kết hôn với một trong những chuyên gia lỗi lạc nhất của Syria, và tôi chỉ cần ngửi mùi bánh thôi, là đã phải nới lỏng quần ra rồi.”
“Có lẽ đã đến lúc anh phải nói với Bella bớt nghiêm ngặt trong chế độ ăn kiêng.”
“ Anh nói với cô ấy đi,” Navot nói. “Bao nhiêu năm nghiên cứu về những người Baath tại Damascus đã ảnh hưởng đến cô ấy. Đôi khi tôi có cảm tưởng như đang sống trong chế độ chuyên chế do cảnh sát nắm quyền.”
Họ đang ngồi ở một bàn biệt lập gần cửa sổ, bên ngoài tiếng mưa tí tách rơi. Gabriel nhìn vào bên trong; Navot nhìn ra ngoài. Navot mặc một quần nhung kẻ và áo len màu be thơm mùi của khu quần áo đàn ông trong tiệm Harrods. Ông đặt mũ lên cái ghế bên cạnh và đưa tay vuốt mái tóc màu nâu đỏ điểm một vài cọng tóc muối tiêu, nhiều hơn theo trí nhớ của Gabriel. Điều này cũng dễ hiểu. Uzi Navot là người đứng đầu Cơ quan Tình báo bí mật Israel. Tóc muối tiêu là một trong những lợi thế của chức vụ này.
Cho dù nhiệm kỳ ngắn ngủi của Navot kết thúc ngay bây giờ, thì ông chắc chắn được xem như một trong những chỉ huy thành công nhất trong lịch sử lâu dài của Văn phòng. Những lời khen ngợi được ban tặng cho ông là do kết quả của chiến dịch Masterpiece, một chiến dịch có sự tham gia của Anh-Mỹ-Israel nhằm tiêu diệt thành công bốn cơ sở hạt nhân bí mật của Iran. Phần nhiều chiến tích là công của Gabriel, nhưng Navot không muốn nhắc đến khía cạnh này. Ông được thăng chức chỉ huy chỉ vì Gabriel đã nhiều lần từ chối nó. Và bốn cơ sở cải tiến này vẫn còn hoạt động nếu Gabriel không nhận diện ra và chiêu dụ gã doanh nhân người Thụy Sĩ – người đã bí mật bán phụ kiện cho Iran.
Hiện giờ, tâm trí Navot dường như chỉ tập trung vào đĩa bánh nướng. Không cưỡng lại được lâu hơn, ông chọn một cái, cẩn thận bẻ ra, phủ mứt dâu và một miếng kem to lên. Gabriel tự rót cho mình một tách trà từ ấm bằng nhôm và lặng lẽ dùng tiếng Đức một cách lưu loát, với giọng Berlin của mẹ ông để hỏi Navot về chuyến viếng thăm không báo trước của ông ta. Đây là một trong năm thứ tiếng mà ông và Navot cùng thông thạo như nhau.
“Tôi có một số vấn đề về tổ chức cần thảo luận với những đối tác người Anh của tôi. Trong nghị trình có đề cập đến báo cáo gây cho tôi chút lúng túng về một nhân viên trước đây của ta đã về hưu và đang sống dưới sự bảo vệ của MI5. Có một lời đồn lung tung về nhân viên này và vụ đánh bom ở Covent Garden. Thành thật mà nói, tôi có hơi hoài nghi khi tôi nghe được. Vì biết rất rõ nhân viên này, tôi không thể tin rằng anh ta có thể gây nguy hiểm cho địa vị của mình ở Anh khi làm một điều điên rồ là rút súng nơi công cộng.”
“Vậy tôi đã phải làm gì đây, Uzi?”
“Đúng ra anh phải phủi tay và gọi đám vệ sĩ MI5 của anh.”
“Vậy nếu anh ở trong hoàn cảnh như tôi thì sao?”
“Nếu tôi ở Jerusalem hay Tel Aviv tôi sẽ không do dự hạ tên khốn đó. Nhưng ở đây thì…” Navot lạc giọng. “Tôi nghĩ trước tiên, tôi phải nghĩ đến hậu quả có thể xảy ra đối với hành động của tôi.”
“Mười tám người đã chết, Uzi.”
“Hãy xem như anh may mắn khi số thương vong không phải là mười chín.” Navot gỡ cặp kính mỏng xuống, cử chỉ quen thuộc của ông trước khi bắt đầu một cuộc trò chuyện không thoải mái. “Tôi định hỏi anh liệu thực sự là anh có định nổ súng không. Nhưng dựa vào những gì anh được đào tạo và những chiến công trong quá khứ của anh, tôi e rằng tôi đã biết câu trả lời. Một đặc vụ của Văn phòng rút vũ khí của mình tại hiện trường vì một lý do và chỉ duy nhất một lý do. Anh ta không vung vẩy nó như một tên trong băng đảng, hoặc chỉ dùng nó để hù dọa. Anh ta bóp cò và bắn để giết.” Navot ngừng rồi tiếp, “Hãy làm những gì bạn muốn với người khác trước khi họ có cơ hội để làm với bạn. Tôi tin rằng những câu này được ghi trong quyển sổ đỏ của Shamron trang mười hai.”
“Ông ấy biết về Covent Garden à?”
“Anh biết rõ hơn thay vì đặt một câu hỏi như vậy. Shamron biết mọi thứ. Thật ra tôi không mấy ngạc nhiên nếu ông ta biết về chuyện xảy ra với anh trước khi tôi biết. Mặc dù tôi có vài lần tìm cách đưa ông ấy về hưu một cách êm thắm, ông ấy cứ khăng khăng giữ liên lạc với những người của ông ấy từ những ngày xa xưa.”
Gabriel thêm một vài giọt sữa vào tách trà và từ từ khuấy, Shamron… Cái tên gắn liền với lịch sử của Israel và hệ thống tình báo đất nước này. Sau khi tham gia trận chiến dẫn đến việc tái lập Israel, Ari Shamron đã trải qua sáu mươi năm kế tiếp để bảo vệ đất nước chống lại một đạo quân kẻ thù muốn tiêu diệt nó. Ông ta đã len lỏi vào những triều đại vua chúa, đánh cắp bí mật của những bạo chúa và giết chết vô số kẻ thù, có khi từ chính tay mình, có khi mượn bàn tay kẻ khác, ví dụ như Gabriel. Chỉ có một bí mật mà Shamron không có được – lòng tự mãn. Tuy đã luống tuổi và tình trạng sức khỏe không khả quan, ông ta vẫn bấu víu một cách tuyệt vọng vào vai trò của mình như một nhà tư vấn hoạt động trong bóng tối quan trọng và rất có ảnh hưởng của Cơ quan An ninh Israel và vẫn còn can dự vào những vấn đề nội bộ của Văn phòng giống như đó là lĩnh vực riêng tư của ông. Không phải do ngạo mạn đã dẫn đưa Shamron mà là vì nỗi sợ hãi dai dẳng rằng công việc của ông chỉ là vô ích. Dù kinh tế thịnh vượng và mạnh về quân sự, nhưng Israel vẫn luôn bị vây quanh bởi một thế giới, mà đối với một số đông, thù địch với chính sự hiện diện của Israel. Việc Gabriel đã chọn sống trong thế giới này được xem như một nỗi thất vọng lớn nhất của Shamron.
“Tôi ngạc nhiên vì sao Shamron không đích thân đến đây,” Gabriel nói.
“Ông ta đã có ý định đó.”
“Vậy sao ông ấy không làm?”
“Đi xa không dễ dàng đối với ông ta.”
“Sao vậy?”
“Đủ thứ chuyện,” nhún vai, Navot nói. “Dạo này ông ta hiếm khi rời Tiberia. Ông ta chỉ ngồi trên sân thượng và nhìn ra hồ. Ông ấy đang làm cho Gilah giận và bối rối. Bà ta năn nỉ tôi đưa một công việc gì đó cho ông ấy làm.”
“Tôi có nên đến thăm ông ta không?”
“Ông ta không đang trên giường bệnh, có phải ngụ ý của anh không? Nhưng thỉnh thoảng anh cũng nên sớm đến thăm. Ai biết được? Thật ra, biết đâu anh sẽ yêu thương đất nước mình lại.”
“Tôi yêu đất nước tôi mà, Uzi.”
“Chỉ không yêu đủ để sống ở đó.”
“Anh luôn làm tôi nhớ một chút về Shamron,” Gabriel nhíu mày nói, “nhưng giờ trông anh giống một cách kỳ lạ.”
“Gilah cũng nói với tôi về điều tương tự cách đây không lâu.”
“Khi tôi nói vậy, tôi không khen đâu.”
“Bà ấy cũng vậy.” Navot thêm một thìa kem đặc nữa vào bánh nướng với sự cẩn thận thái quá.
“Vậy thì vì sao anh lại đến đây, Uzi?”
“Tôi muốn đưa cho anh một cơ hội duy nhất.”
“Nghe sao giống người đi bán hàng vậy.”
“Tôi là gián điệp,” Navot nói. “Cũng chẳng có khác bao nhiêu.”
“Anh cho tôi cơ hội gì?”
“Một cơ hội để chuộc lỗi.”
“Lỗi gì?”
“Anh đã phải bắn Farid Khan từ phía sau đầu trước khi hắn kịp bấm kíp nổ.” Navot hạ thấp giọng và như muốn tâm sự, ông nói tiếp, “Đó là điều mà tôi đã làm nếu tôi ở vào địa vị anh.”
“Vậy tôi sẽ phải làm gì để sửa sự thiếu sót trong phán đoán này?”
“Bằng cách nhận một lời mời.”
“Từ ai?”
Im lặng, Navot nhìn về phía tây.
“Những người Mỹ?” Gabriel hỏi.
Navot mỉm cười. “Thêm nước trà nhé?”
❀ ❀ ❀Cơn mưa chấm dứt đột ngột như khi bắt đầu. Gabriel để tiền trên bàn và đưa Navot xuống dốc về hướng vịnh Polpeor. Gã cận vệ vẫn đứng dựa vào lan can đổ nát của nhà để thuyền cấp cứu. Hắn giả vờ thờ ơ không nhìn khi Gabriel và Navot đi từ từ qua bờ đá đến rìa nước. Navot lơ đãng nhìn đồng hồ và kéo cao cổ áo khoác che cơn gió mạnh từ biển thổi vào. Một lần nữa Gabriel lại giật mình vì sự giống nhau kỳ lạ của Navot với Shamron. Sự giống nhau này vượt qua cả bề mặt. Giống như là Shamron, bằng sức mạnh tuyệt đối của ý chí bất khuất của mình, đã thâm nhập vào cơ thể và thần trí của Navot. Không còn là Shamron, người bị suy yếu vì tuổi tác và bệnh tật, nhưng là một Shamron thời phong độ nhất, Gabriel nghĩ vậy. Chỉ thiếu những điếu thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ đáng ghét đã tàn phá Shamron. Bella chưa bao giờ cho Navot hút thuốc, cho dù là với mục đích che đậy ông ta.
“Ai là kẻ đứng sau vụ nổ bom, Uzi?”
“Cho đến nay, chúng tôi không thể xác định rõ ràng được. Tuy nhiên, có vẻ như những người Mỹ xem hắn là hình ảnh tương lai của khủng bố thánh chiến Hồi giáo toàn cầu – Bin Laden mới.”
“Bin Laden mới này có tên không?”
“Người Mỹ nhấn mạnh rằng họ muốn chia sẻ thông tin này khi đối mặt với anh. Họ muốn anh đến Washington, dĩ nhiên là mọi chi phí sẽ do họ chi trả.”
“Lời mời được đưa đến bằng cách nào?”
“Đích thân Adrian Carter đã gọi tôi.”
Adrian Carter đã là giám đốc của Sở Mật vụ Quốc gia CIA*.
Nguyên bản “National Clandestine Service” – một bộ phận của CIA (Central Intelligence Agency – cơ quan tình báo Trung ương của Hoa Kỳ).
“Yêu cầu trang phục ra sao?”
“Màu đen,” Navot nói. “Chuyến đi của anh đến Mỹ hoàn toàn riêng biệt, không theo những thủ tục thường lệ.”
Im lặng một lúc, Gabriel nhìn Navot và nói. “Hiển nhiên là anh muốn tôi đi, Uzi. Nếu không thì anh đâu đến đây.”
“Đi cũng chẳng mất mát gì,” Navot nói. “Tệ lắm đây là một cơ hội để nghe người Mỹ nói gì về những vụ đánh bom. Ngoài ra, còn có vài điểm lợi lẻ tẻ khác.”
“Ví dụ như gì?”
“Mối quan hệ của chúng ta có thể được điều chỉnh.”
“Điều chỉnh kiểu nào?”
“Anh không biết sao? Có một luồng gió mới đang thổi qua Washington. Mọi người đều cảm thấy như thế,” Navot mỉa mai nói. “Tổng thống mới của Mỹ là một người theo chủ nghĩa lý tưởng. Ông ta tin rằng ông có thể chỉnh đốn lại mối quan hệ giữa phương Tây và thế giới Hồi giáo, và ông tự thuyết phục rằng chúng ta là một phần của vấn đề.”
“Như vậy, giải pháp là gửi tôi , một cựu sát nhân, tay vấy máu của nhiều người Palestine và khủng bố Hồi giáo, đến Mỹ phải không?”
“Khi các gián điệp cùng hoạt động tốt với nhau thì thường lấn qua lĩnh vực chính trị, đó chính là lý do vì sao thủ tướng cũng nôn nóng muốn anh qua.”
“Thủ tướng à? Điều kế tiếp mà anh sắp nói với tôi là Shamron cũng có phần trong việc này.”
“Đúng vậy.” Navot lượm một hòn đá và ném mạnh xuống biển. “Sau chiến dịch Iran, tôi đã tự nghĩ rằng Shamron cuối cùng sẽ lui vào hậu trường. Tôi đã sai. Ông ta không có ý định để tôi điều hành Văn phòng mà không có sự can thiệp thường xuyên của ông ta. Nhưng điều đó không đáng ngạc nhiên phải không Gabriel? Cả hai chúng ta đều biết rằng Shamron đã có một người nào khác cho công việc đó. Do định mệnh, tôi đã đi vào lịch sử lừng danh của Văn phòng như một người điều hành bất đắc dĩ. Và anh sẽ luôn là người được chọn.”
“Chọn một người nào khác đi Uzi. Anh nhớ là tôi đã về hưu chứ? Hãy chọn một người khác đi Uzi.”
“Adrian sẽ không chịu đâu,” vừa bóp vai Navot vừa nói. “Và Shamron cũng vậy. Còn đối với việc mà anh gọi là về hưu, nó đã kết thúc ngay khi anh quyết định đi theo Farid Khan ở Covent Garden.”
Gabriel nhìn ra biển và thấy lại kết quả của vụ nổ súng không thành: những phần thân thể và máu, một vụ Baghdad trên sông Thames, có vẻ như Navot đoán được tư tưởng của Gabriel. Ông chụp lấy lợi thế và nói:
“Người Mỹ muốn anh có mặt tại Washington ngay sáng ngày mai. Máy bay Gulfstream đang đợi anh ngoài London. Đây là loại máy bay họ dùng cho chương trình chuyên chở những người đầu hàng về. Họ bảo đảm là đã bỏ hết những còng tay và kim chích dưới da ra rồi.”
“Còn Chiara thì sao?”
“Lời mời chỉ dành cho một người.”
“Chiara không thể ở đây một mình.”
“Graham đã đồng ý cho một đội an ninh từ London đến.”
“Tôi không tin họ. Đưa cô ấy về Israel với anh đi. Cô ấy có thể giúp Gilah trông nom ông già trong vài ngày cho đến khi tôi quay về.”
“Cô ta cũng có thể ở đó ít lâu.”
Gabriel nhìn Navot dò xét. Ông hiểu rõ hơn những gì mình đang nói. Thường là như vậy.
“Tôi vừa mới nhận lời phục chế lại một bức tranh cho Julian Isherwood.”
“Bức Đức Mẹ và Chúa Hài đồng với Mary Magdalene , trước được xem là của Phòng tranh Palma Vecchio, giờ tạm thời là của Titian, đang chờ kiểm tra để xác định.”
“Rất ấn tượng đó, Uzi.”
“Bella đã mở rộng tầm nhìn cho tôi đó.”
“Bức tranh không thể để trong căn nhà vắng người bên bờ biển.”
“Julian đã đồng ý lấy lại bức tranh. Như anh có thể tưởng tượng, anh ta rất thất vọng.”
“Tôi được trả hai trăm ngàn bảng Anh cho bức tranh đó.”
“Lỗi không phải ở tôi, Gabriel. Ngân sách hiện nay trống trơn. Tôi đã phải cố gắng cắt giảm chi phí trong tất cả các phòng ban. Bọn kế toán cũng đang bắt tôi giảm bớt chi phí riêng. Tiền công của tôi giờ rất ít ỏi.”
“May là anh đang ăn kiêng.”
Navot lơ đãng sờ bụng, như để kiểm tra xem nó có to ra thêm từ khi ông ra khỏi nhà không.
“Con đường từ đây về London xa đó Uzi. Có lẽ anh nên lấy thêm bánh nướng nữa.”
“Đừng nghĩ đến điều đó nhé.”
“Anh sợ rằng Bella sẽ biết?”
“Tôi chắc chắn rằng Bella sẽ biết.” Navot nhìn tên cận vệ đứng dựa vào lan can nhà thuyền. “Mấy đứa chết tiệt này báo cáo đầy đủ cho bà ta. Cứ giống như đang sống trong một chế độ cảnh sát chuyên chế.”