Chương 11 GEORGETOWN, WASHINGTON, D.C.
Căn nhà nằm ở dãy 3300 của đường N, trên sân thượng thanh lịch của nơi cư trú xây dựng theo phong cách liên bang, mà giá trị vượt xa tầm với của số đông, trừ những kẻ giàu nhất Washington. Gabriel leo lên những bậc thang của cầu thang xoắn trước cổng trong ánh sáng xám của bình minh, và như đã được hướng dẫn, ông vào trong mà không cần bấm chuông. Adrian Carter đợi ở tiền sảnh. Ông mặc quần vải nhẹ nhăn, áo len có đường viền quanh cổ, và một áo khoác nhung kẻ nâu nhạt. Quần áo kết hợp với mái tóc bù rối và bộ râu mép lỗi thời tạo cho Carter bề ngoài của một giáo sư đại học tầm thường, loại người bảo vệ cho những lý tưởng cao quý và luôn là cái gai trong mắt của viện trưởng. Là giám đốc của Sở Mật vụ Quốc gia CIA, công việc của Carter trong những ngày này, không có gì hơn ngoài việc gìn giữ quê hương nước Mỹ khỏi một sự tấn công nữa của khủng bố – dù mỗi tháng vẫn phát bữa ăn cho những kẻ không nhà ở tầng hầm của nhà thờ giám mục ở ngoại ô Reston. Đối với Carter, công việc tự nguyện là một cơ hội để suy ngẫm, một cơ hội hiếm hoi để thâm nhập vào một lĩnh vực nào đó khác với việc giết hại lẫn nhau trong chiến tranh luôn được bàn cãi gay gắt trong những hội nghị của cộng đồng tình báo.
Ông chào đón Gabriel một cách thận trọng, theo bản năng tự nhiên của những người trong thế giới ngầm và đưa Gabriel vào. Gabriel ngừng một lúc ở giữa hành lang và nhìn xung quanh. Những thỏa thuận ngầm đã được thiết lập và phá vỡ trong những căn phòng được trang bị một cách buồn tẻ này; nhiều người đã bị mê hoặc để phản bội lại đất nước của họ bằng những va li đầy đô la và những lời hứa hẹn được người Mỹ bảo vệ. Carter đã sử dụng cơ ngơi này khá thường xuyên và khắp Langley đều xem Georgetown như một nơi tạm trú của ông. Một kẻ hóm hỉnh của Sở đã đặt tên cho chỗ này là Dar-al-Harb, tiếng Ả Rập là “Căn nhà của chiến tranh”. Dĩ nhiên đây là chiến tranh kín đáo, vì Carter không biết cách nào khác để chiến đấu.
Adrian Carter đã không tích cực tìm kiếm quyền lực, mà rất nhiều quyền lực đã được cố tình trao cho ông, quyền lực mà Carter không mong muốn. Được Cơ quan Tình báo tuyển dụng ngay khi còn ở bậc đại học, ông đã dùng phần nhiều thời gian khởi đầu những cuộc chiến tranh bí mật chống lại người Nga – đầu tiên là ở Ba Lan, nơi mà ông đã luồn tiền và máy in roneo cho Đoàn Kết (tổ chức công đoàn phi chính phủ của Ba Lan); sau đó là Moscow, nơi ông quản lý một trạm, và cuối cùng là Afghanistan, nơi ông đã động viên và trang bị vũ khí cho lính của Allah, dù ông biết một ngày nào đó họ sẽ nã súng và giết chết ông. Nếu Afghanistan đã chứng tỏ là Vương quốc suy đồi của tội ác, thì nó cũng đã cung cấp cho Carter tấm vé để thăng tiến trong sự nghiệp. Ông đã giám sát sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết, không ở tại hiện trường mà tại một văn phòng tiện nghi ở Langley, nơi ông vừa mới được đề bạt lên làm lãnh đạo phụ trách khối châu Âu. Trong khi đồng nghiệp của ông công khai ăn mừng sự thất bại của quân thù, thì Carter xem những sự kiện xảy ra như một điềm gở. Cơ quan đã thất bại trong việc dự đoán sự sụp đổ của chế độ cộng sản, một sai lầm sẽ ám ảnh Langley trong nhiều năm. Tệ hơn là chỉ trong nháy mắt, CIA đã mất lý do để tồn tại.
Điều này đã thay đổi vào buổi sáng ngày 11 tháng Chín, năm 2001. Cuộc chiến xảy ra tiếp theo sẽ là một cuộc chiến trong bóng tối, nơi mà Adrian Carter hiểu rất rõ. Trong khi Lầu Năm Góc đang gắng sức nghĩ ra một cuộc trả đũa ngày 11/9 bằng quân sự thì chính Carter và nhân viên của ông ở Trung tâm Chống Khủng bố đã đưa ra một kế hoạch táo bạo là hủy diệt sào huyệt al-Qaeda ở Afghanistan bằng chiến tranh du kích do CIA tài trợ, chỉ huy bởi một nhóm nhỏ lực lượng đặc biệt của Mỹ. Khi những sĩ quan chỉ huy và những chiến binh al-Qaeda bắt đầu rơi vào tay người Mỹ thì Carter đã là quan tòa xét xử họ tại Langley. Những phòng tối, phòng tra tấn đặc biệt để quy phục, những phương pháp làm tăng hiệu quả xét hỏi – tất cả đều có bàn tay của Carter. Carter không thể cảm thấy hối hận, ông không có kiểu cách này. Đối với Carter, sáng nào cũng là 12 tháng Chín. Ông đã thề nguyện là sẽ không bao giờ nữa phải nhìn thấy cảnh người Mỹ thoát ra từ những tòa nhà chọc trời bốc cháy, bởi lẽ họ sẽ không còn phải gánh chịu sức nóng của ngọn lửa quân khủng bố nữa.
Trong mười năm nay, Carter đã tìm cách giữ lời hứa này. Không ai đã làm nhiều hơn ông để bảo vệ mảnh đất quê hương khỏi một vụ tấn công thứ hai có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vì những tội lỗi bí mật của mình, ông đã bị giới báo chí bêu rếu và đe dọa bị truy tố hình sự. Theo sự tư vấn của một luật sư ở Cơ quan Tình báo, ông đã thuê một luật sư đắt tiền ở Washington. Sự ngông cuồng này đã ngốn đều đều số tiền tiết kiệm của ông và buộc Margaret, vợ ông, quay lại giảng dạy. Bạn ông đã thúc giục ông từ bỏ cơ quan và nhận một chức vụ sinh lợi ở một công ty bảo hiểm tư nhân, nhưng ông từ chối. Sự thất bại để ngăn chặn vụ tấn công 11/9 vẫn còn ám ảnh ông. Và những bóng ma của ba trăm ngàn người buộc ông phải tiếp tục đấu tranh cho đến khi kẻ thù bị đánh bại.
Cuộc chiến đã gây thiệt hại cho Carter – không chỉ cho cuộc sống gia đình, trở nên hỗn loạn, mà còn cho sức khỏe của ông. Gương mặt Carter hốc hác và cau lại, Gabriel còn để ý thấy tay phải của Carter run nhẹ khi ông buồn rầu lấy trong tủ ở phòng ăn bánh trái do chính phủ cung cấp và bỏ lên đĩa của mình. “Huyết áp cao,” Carter giải thích khi ông rót cà phê từ bình thủy ra. “Điều này bắt đầu từ ngày Lễ Nhậm chức, và huyết áp tôi tăng giảm tùy vào mức độ đe dọa của khủng bố. Một điều đáng buồn là sau mười năm chiến đấu với quân khủng bố Hồi giáo, tôi có cảm tưởng mình trở thành hơi thở, nhịp đập của Ủy ban Cố vấn Chống đe dọa Quốc gia.”
“Hiện chúng ta đang ở mức độ nào?”
“Anh không biết à?” Carter hỏi. “Chúng ta đã bỏ hệ thống mã màu cũ.”
“Huyết áp ông nói gì?”
“Màu đỏ,” Carter nghiêm nghị nói. “Đỏ tươi.”
“Đó không phải là ý kiến của giám đốc Bộ An ninh Nội địa. Bà ta nói là không có mối đe dọa tức thì.”
“Những lời bà ấy nói không phải luôn luôn của bà ta.”
“Vậy thì của ai?”
“Nhà Trắng,” Carter nói. “Và tổng thống không thích báo động cho người dân Mỹ một cách không cần thiết. Ngoài ra, làm tăng mức độ đe dọa sẽ đối chọi với bài tường thuật thuận lợi đang lan truyền trong dư luận công chúng ở Washington.”
“Bài tường thuật nói gì?”
“Có bài thì nói là người Mỹ đã phản ứng quá mức trong vụ 11/9. Có bài nói rằng al-Qaeda sẽ không còn là mối đe dọa cho bất cứ ai nữa, chứ đừng nói chi là quốc gia mạnh nhất trên trái đất. Cũng có bài nói rằng đã đến lúc tuyên bố chiến thắng trong chiến tranh toàn cầu với khủng bố và nên hướng sự quan tâm đến những vấn đề quốc nội.” Carter nhíu mày. “Lạy Chúa, nhưng tôi ghét khi nhà báo sử dụng từ ‘tường thuật’. Đã có một thời gian nhiệm vụ của các tiểu thuyết gia là tường thuật lại câu chuyện và các nhà báo chỉ báo cáo lại việc xảy ra trong thực tế. Và thực tế hoàn toàn đơn giản. Trên thế giới ngày nay, có một tổ chức tìm cách làm suy yếu hoặc ngay cả hủy diệt phương Tây bằng những hành động bạo lực bừa bãi. Tổ chức này là một phần của phong trào cấp tiến rộng rãi nhằm áp đặt luật sharia luật Hồi giáo và tái lập lại Vương quốc Hồi giáoCaliphate. Và có nghĩa là không ai có thể mơ tưởng là sẽ phá tan phong trào này.”
Gabriel và Carter ngồi đối diện nhau trên chiếc bàn hình chữ nhật. Carter chọn một cái bánh croissant bị thiu. Rõ ràng là tâm trí của ông đang ở đâu đâu.
Gabriel biết tốt hơn là không nên hấp tấp. Trong câu chuyện, Carter đôi khi hơi lơ đãng. Trước sau rồi ông ta cũng sẽ đi vào vấn đề, nhưng cũng sẽ có vài sự lòng vòng và lạc đề, tất cả những điều này sẽ chắc chắn hữu ích cho Gabriel sau này.
“Ở một khía cạnh nào đó,” Carter tiếp, “tôi đồng cảm với ý muốn của tổng thống là lật sang trang lịch sử khác. Ông ta nhìn trận chiến toàn cầu với khủng bố như một sự xao lãng khỏi những mục tiêu rộng lớn của ông. Anh có thể thấy khó tin, nhưng tôi đã gặp tổng thống hai lần, và ông ta gọi tôi là Andrew.”
“Nhưng ít ra, ông ta cũng đã cho chúng ta hy vọng.”
“Hy vọng không phải là một chiến thuật được chấp nhận khi sinh mạng đang lâm nguy. Hy vọng là những gì đã dẫn đến vụ 11/9.”
“Vậy thì ai đã giật dây bên trong chính phủ?”
“James McKenna, trợ lý của tổng thống về an ninh nội địa và chống khủng bố, còn được biết như một ‘Nga hoàng’ của chủ nghĩa khủng bố, điều này thật buồn cười vì McKenna đã ban hành một sắc lệnh cấm dùng từ ‘khủng bố’ trong tất cả những lời tuyên bố trước công chúng. Hắn ta còn cản trở việc sử dụng từ này cả những nơi riêng tư. Và lạy trời chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi lỡ đặt từ ‘Hồi giáo’ cạnh chữ ‘khủng bố’. Điều mà James McKenna quan tâm là chúng ta sẽ không dính líu vào một trận chiến với quân khủng bố Hồi giáo, chúng ta tham gia vào một nỗ lực quốc tế chống lại một nhóm nhỏ xuyên quốc gia cực đoan. Những kẻ cực đoan này nếu ngẫu nhiên là người Hồi giáo, cũng chỉ làm chúng ta bực bội, chứ không là một mối đe dọa thực sự đến cuộc sống của chúng ta.”
“Ông hãy nói điều đó với những gia đình đã có người thiệt mạng ở Paris, Copenhagen và London.”
“Đây là một câu trả lời đượm mùi cảm xúc,” Carter mỉa mai nói. “Và James McKenna không chấp nhận cảm xúc khi liên quan đến khủng bố.”
“Ông muốn ám chỉ những kẻ cực đoan,” Gabriel nói.
“Thứ lỗi cho tôi,” Carter nói. “McKenna là một chính trị gia độc ác, tưởng tượng mình là một chuyên gia về tình báo. Ông ta là nhân viên của Ủy ban đặc biệt về Tình báo của Thượng viện vào những năm 90, sau đó ông ta gia nhập vào Langley chẳng bao lâu sau khi người Hy Lạp đến. Thời gian này chỉ kéo dài một ít tháng, nhưng ông ta cũng tự xem mình là người kỳ cựu của CIA. McKenna thừa nhận ông ta là người của Cơ quan Tình báo và là người thực tâm chú ý nhất đến lợi ích của cơ quan, sự thật hơi khác. Ông ta ghét cơ quan và những người làm việc cực nhọc ở đó. Hơn hết, ông ta khinh thường tôi.”
“Tại sao?”
“Hiển nhiên là tôi đã làm ông ta lúng túng trong một buổi họp nhân viên cao cấp. Tôi không nhớ sự cố, nhưng dường như McKenna chưa bao giờ quên. Ngoài ra, người ta nói với tôi rằng McKenna xem tôi như một quái vật đã làm tổn hại đến hình ảnh của nước Mỹ trên thế giới. Không có điều gì có thể làm ông ta hạnh phúc hơn là thấy tôi đằng sau song sắt.”
“Thật tốt khi thấy cộng đồng tình báo của Mỹ hoạt động hòa hợp lại.”
“Thực sự, McKenna có cảm tưởng mọi thứ đều trôi chảy khi ông ta điều hành toàn bộ công việc, ông ta còn sắp xếp để được bổ nhiệm làm chủ tịch của Đội Điều tra Đặc biệt. Nếu một tên khủng bố quan trọng bị bắt bất cứ đâu trên thế giới, dưới bất cứ hoàn cảnh nào, McKenna sẽ đảm nhiệm việc tra hỏi. Việc này chính là đặt quyền lực rất lớn vào tay duy nhất một người, khi người đó có đủ trình độ. Nhưng rất tiếc là James McKenna không nằm trong thành phần có khả năng này. Ông ta có tham vọng, ông ta có thiện chí, nhưng ông ta không biết mình đang làm gì. Và nếu ông ta không cẩn thận, ông ta sẽ giết hết chúng ta.”
“Nghe có vẻ hấp dẫn nhỉ,” Gabriel nói. “Bao giờ thì tôi sẽ gặp ông ta?”
“Không bao giờ.”
“Vậy tại sao tôi lại ở đây, Adrian?”
“Anh ở đây vì những vụ thảm sát ở Paris, Copenhagen và London.”
“Ai là thủ phạm?”
“Một nhánh mới của al-Qaeda,” Carter nói. “Nhưng tôi e rằng, họ có sự hỗ trợ của một người có ảnh hưởng và quyền lực trong giới tình báo phương Tây.”
“Ai?”
Carter không nói gì thêm. Tay phải của ông đang run.