Chương 15 GEORGETOWN, WASHINGTON, D.C.
Sáng hôm sau, Gabriel và Sarah dọn đến căn nhà ở đường N lúc 9 giờ. Một giờ sau, đợt hồ sơ đầu tiên được chở đến – sáu thùng bằng thép không gỉ, tất cả đều khóa bằng số. Không hiểu vì lý do gì, Carter chỉ giao phó mật mã khóa cho Sarah. “Điều lệ là điều lệ,” ông ta nói, “và điều lệ của Cơ quan Tình báo là sĩ quan tình báo nước ngoài không bao giờ được giao phó mật mã của thùng chứa hồ sơ.” Khi Gabriel nhấn mạnh rằng ông ta có quyền xem một số vấn đề cá nhân bẩn thỉu nhất của Cơ quan, Carter đã không nhượng bộ. Căn bản thì Sarah cất giữ tài liệu. Việc ghi chép phải được hạn chế và không được sao tài liệu. Chính tay Carter tháo gỡ máy fax và yêu cầu Gabriel đưa điện thoại di động của ông, nhưng Gabriel đã lịch sự từ chối. Văn phòng đã cung cấp điện thoại cho Gabriel và có những chức năng mà điện thoại bán trên thị trường không có. Như thực tế chiều hôm qua. Gabriel đã dùng nó để rà soát căn nhà tìm máy nghe lén. Ông đã tìm được bốn máy. Hiển nhiên là chỉ có sự hợp tác giữa Liên Cục Tình báo mới đi quá xa như vậy.
Những hồ sơ ban đầu gửi đến tập trung vào thời gian Rashid ở Mỹ trước 11/9 cùng những mối liên lạc bất chính và tình cờ của hắn với chính âm mưu tấn công. Phần lớn tài liệu được FBI, đối thủ không mấy quyến rũ của Langley, tạo ra. Những tài liệu này đã được chia sẻ trong thời gian ngắn, theo lệnh của tổng thống, khi mà hai cơ quan xem như phải hợp tác với nhau. Tài liệu này cho thấy khi Rashid al-Husseini xuất hiện trên ra-đa của Cơ quan Tình báo trong tuần lễ hắn đến San Diego và là mục tiêu theo dõi có vẻ như không được chú ý lắm. Tài liệu chứa đựng bản chép ra từ cuộc nghe lén điện thoại được tòa án chấp nhận cùng những bức ảnh của đội theo dõi đối tượng trong thời gian ngắn Rashid ở San Diego và Washington khi họ có thời gian và nhân lực để theo dõi hắn. Ngoài ra còn có một bản sao của bản đánh giá phân loại liên ngành đã chính thức xác nhận rằng Rashid không giữ một vai trò nào trong âm mưu 11/9. Gabriel nghĩ đúng là Rashid đóng vai một giáo sĩ vô cùng ngây thơ, quá xuất sắc không thể hơn được nữa. Gabriel tin rằng một người sẽ quen thuộc với môi trường anh ta sống, và Gabriel đã có mối liên hệ với mạng lưới khủng bố khá lâu để có thể nhận ra một nghi can khi ông nhìn thấy hắn. Gần như chắc chắn Rashid al-Husseini là một người đưa tin hoặc một đầu mối thông tin. Ít nhất thì hắn là một cảm tình viên. Và, theo Gabriel thì cơ quan tình báo không thể thu nhận một cảm tình viên và trả lương như những nhân viên có uy tín. Họ phải được canh chừng và nếu cần thì đối xử một cách hà khắc.
Đợt tài liệu tiếp theo chứa những bản ghi chép và những băng ghi âm lại cuộc thẩm vấn Rashid của CIA, sau đó không bao lâu là mảnh vụn của chiến dịch bất hạnh trong đó hắn đã giữ vai trò của nhân vật chính. Tài liệu đã kết luận bằng một báo cáo rút kinh nghiệm biểu lộ sự thất vọng qua sự cố này sau những ngày mà Rashid đào tẩu ở Mecca. Bản báo cáo cho thấy chiến dịch đã được hình thành một cách kém cỏi từ ban đầu. Carter là người bị khiển trách nhiều nhất do sai sót trong sự quan sát lỏng lẻo của ông. Kèm theo tài liệu là bản tự đánh giá của chính Carter, tự phê bình rất gay gắt. Tiên đoán sẽ có phản ứng, Carter đã đề nghị xem xét lại toàn bộ những mối liên lạc của Rashid ở Mỹ và châu Âu. Giám đốc của Carter đã bác bỏ lời đề nghị này, ông ta nói rằng lực lượng của cơ quan đã bị xé ra quá mỏng để đuổi theo những cái bóng. Rashid cũng đã quay về Yemen, nơi hắn thuộc về. Như vậy là rảnh nợ.
“Cơ quan Tình báo đã có những giờ phút khó khăn,” Sarah nói trong lúc giải lao vào chiều tối. “Chúng ta đã quá điên rồ khi sử dụng hắn.”
“Họ đã bắt đầu bằng một phỏng đoán chính xác về sự xấu xa của Rashid, nhưng trong quá trình làm việc đã bị hắn mê hoặc. Cũng dễ hiểu thôi vì Rashid tỏ ra rất thuyết phục.”
“Gần như ông.”
“Nhưng tôi không gửi những người tôi tuyển mộ đến những đường phố đông đúc để thực hiện những vụ ám sát bừa bãi.”
“Không,” Sarah nói, “ông đưa họ vào những chiến trường mật để tiêu diệt kẻ thù của ông.”
“Những điều đó không có vẻ gì là thánh thiện cả. Tôi đối xử với họ không đến nỗi thô bạo như cô nói.”
“Đúng vậy. Tin tôi đi, tôi biết mà.” Mệt mỏi, Sarah nhìn chồng hồ sơ. “Chúng ta còn một núi tài liệu để xem, giờ chỉ mới là bắt đầu. Cửa sắp mở ra để nhận thêm tài liệu.”
“Cô đừng lo,” Gabriel mỉm cười, nói. “Những người viện trợ đang trên đường đến.”
❀ ❀ ❀Chiều hôm sau họ đến sân bay Dulles, với những tên và hộ chiếu giả. Họ không bị phạt mà ngược lại, còn được một đội nhân viên của cơ quan dẫn nhanh qua cửa hải quan và đưa vào một đoàn xe bọc thép Escalade đến Washington. Theo chỉ thị của Adrian Carter, những chiếc Escalade rời sân bay Dulles cách nhau mười lăm phút. Kết quả là nhóm đặc vụ được nói tới nhiều nhất trong thế giới gián điệp, dọn đến ở một ngôi nhà trên đường N tối hôm đó, mà những người cư ngụ trong vùng không ai hay.
Chiara là người đến đầu tiên, sau đó là một chuyên gia về khủng bố của Văn phòng tên là Dina Sarid. Nhỏ con và tóc nâu, Dina quá biết nỗi kinh hoàng của sự bạo tàn từ nhóm cực đoan. Vào ngày 09/10/1994, cô đã đứng ở đường Dizengoff – Tel Aviv, khi một tên cảm tử của Hamas cho nổ bom và đã biến chiếc xe buýt số 5 thành quan tài của hai mươi mốt người. Mẹ và hai người chị cô trong số thương vong, Dina bị thương nặng và đến nay vẫn còn đi hơi khập khiễng. Khi hồi phục, Dina đã thề rằng sẽ tiêu diệt bọn khủng bố không bằng sức mạnh mà bằng trí óc. Dina như một kho dữ liệu sống, cô có thể đọc giờ, nơi chốn, thủ phạm và số thương vong của mỗi một vụ khủng bố ở Israel và những mục tiêu ở châu Âu. Đã có lần Dina nói với Gabriel là cô biết về khủng bố hơn là chính bọn chúng. Và Gabriel tin Dina.
Người kế tiếp là Eli Lavon, một người đàn ông cuối thời trung niên. Nhỏ người và quần áo xộc xệch, mái tóc muối tiêu và mắt tinh ranh màu nâu, Lavon được xem như một người theo dõi tinh tế nhất mà Văn phòng đã từng có. Được thiên phú cho một khả năng ẩn danh tự nhiên, Lavon nhìn như một kẻ bị đời chà đạp. Trên thực tế, Lavon là một dã thú có thể theo dõi một sĩ quan tình báo được huấn luyện ở trình độ cao hoặc một tên khủng bố cứng cỏi qua bất cứ con phố nào trên thế giới mà không gây một thoáng chú ý nào. Cũng giống như Gabriel, quan hệ giữa Lavon với Văn phòng rất mong manh. Lavon vẫn thuyết giảng ở Viện Hàn lâm – chưa một người nào được Văn phòng tuyển lại được gửi vào trận chiến mà không trải qua một vài giờ với Lavon – nhưng gần đây, địa chỉ làm việc đầu tiên của Lavon là đại học Do Thái ở Jerusalem, nơi Lavon dạy khảo cổ học. Nhưng với vài miếng đồ gốm bể, Eli Lavon có thể giải mã những bí mật tối tăm nhất của một ngôi làng thời đại đồ đồng. Và chỉ vài đầu mối tình báo liên quan, Lavon có thể lần ra một mạng lưới khủng bố.
Người xuất hiện tiếp là Yaakov Rossman, một cựu chiến binh mặt rỗ chuyên cung cấp điệp viên kỳ cựu, theo sau là hai nhân viên tình báo Oded và Mordecai. Kế đến là Rimona Stern, trước đây là một sĩ quan tình báo quân đội, giờ giải quyết những vấn đề liên quan đến chương trình vô hiệu hóa hạt nhân của Iran. Là một phụ nữ đầy đặn và gợi cảm với mái tóc màu đá sa thạch, Rimona cũng là cháu gái của Shamron. Gabriel biết cô ta từ khi còn bé – dĩ nhiên, ký ức trìu mến nhất của Gabriel về Rimona là một cô gái gan dạ ngồi trên chiếc xe trượt đồ chơi của trẻ con, di chuyển không kiểm soát lao xuống lối mòn dốc vào căn nhà nổi tiếng của chú Rimona. Một lần ngã xe nặng đã để lại vết sẹo mờ bên phía đùi trái đẫy đà của cô. Gabriel đã băng bó cấp cứu cho Rimona và Chiara đã lau khô nước mắt cho cô. Shamron đã quá bối rối để có thể giúp cho cô cháu gái của mình, thành viên duy nhất của gia đình sống sót trong vụ thiêu sống, và ông không thể chịu đựng nổi khi nhìn những người thân yêu của mình phải chịu đau đớn.
Đến sau Rimona vài phút là Yossi Gavish. Dáng cao, đầu hói, mặc một quần nhung và áo vải tweed, Yossi từng là sĩ quan cao cấp phụ trách về Nghiên cứu, tên mà Văn phòng đặt cho phòng phân tích. Sinh ra ở London, Yossi học ngôn ngữ và văn học cổ Hy La tại All Souls, nói tiếng Do Thái với phát âm bằng giọng Anh. Yossi cũng có học một ít diễn xuất – vai Iago vẫn còn được nhắc đến với nhiều cảm tình của giới phê bình ở Stratford – và ngoài ra, Yossi còn là người chơi cello có năng khiếu. Gabriel chưa khai thác năng khiếu âm nhạc của Yossi, nhưng khả năng đóng kịch của Yossi thì đã hơn một lần cho thấy rất có ích khi hữu sự. Như trong khi ở một quán cà phê tại bờ biển St. Barts, những cô hầu bàn cứ mơ mộng về một Yossi thì tại một khách sạn ở Geneva, một nhân viên đã tự thề sẽ bắn gã Yossi ngay lập tức nếu gặp mặt.
Như thường lệ, Mikhail Abramov là người đến sau cùng. Cao lêu nghêu và tóc sáng màu, mặt xương và mắt màu xanh rất đẹp của tảng băng ở Bắc Cực, Mikhail đã di dân từ Nga sang Israel khi còn là một thanh niên. Anh ta đã gia nhập Sayeret Matkal, đội ưu tú cho những chiến dịch đặc biệt của Lực lượng Phòng vệ IsraelIDF. Gabriel mô tả anh ta là “Gabriel không có lương tâm” vì cá nhân Mikhail đã ám sát nhiều tay khủng bố sừng sỏ từ Hamas đến nhóm Hồi giáo Jihad Palestine. Khiêng hai thùng nặng đầy thiết bị điện tử, Mikhail chào Sarah bằng một nụ hôn rất lạnh nhạt. Eli Lavon sau này mô tả nụ hôn này như vòng ôm băng giá nhất kể từ khi Shamron đã phải nỗ lực bắt tay Yasser Arafat trong ngày thanh bình hạnh phúc của buổi diễu hành suy tôn hòa bình.
Đội của Gabriel mang mã Barak, tiếng Do Thái nghĩa là tiếng sét. Chín người đàn ông và phụ nữ trong đội có nhiều tính cách và thói quen khác nhau. Những khác biệt phong cách cá nhân này dẫn đến những cuộc tranh cãi ầm ĩ như trẻ con về nhiệm vụ được giao. Một trong những thói quen là bữa cơm thịnh soạn do Chiara làm trong đêm đầu tiên. Một bữa ăn như vậy tại đường N gây nhiều cảm xúc nhất vì không bao giờ tưởng tượng có thể xảy ra. Giống như mọi người ở Đại lộ King Saul, cả đội đều nghĩ rằng chiến dịch chống lại chương trình hạt nhân ở Iran là nhiệm vụ cuối cùng của Gabriel. Họ được người sếp trên danh nghĩa Uzi Navot, người không hoàn toàn bực mình, và Shamron đang lo lắng, thông báo sự việc. “Tôi không còn lựa chọn nào khác là để anh ta đi.” Shamron nói sau cuộc chạm trán huyền thoại với Gabriel ở vách đá Cornwall. “Lần này là thật.”
Sẽ là thật nếu Gabriel không bắt gặp tại chỗ Farid Khan, đang đi dọc theo đường Wellington, với một trái bom bên dưới áo khoác. Những người đàn ông, đàn bà ngồi tụ tập quanh bàn ăn hiểu rằng số thương vong tại Covent Garden đã tác động lên Gabriel như thế nào. Nhiều năm trước đây, ở một cuộc sống khác, dưới một tên khác, Gabriel đã thất bại khi ngăn cản một vụ đánh bom ở Vienna, và thất bại này đã thay đổi cuộc sống của ông. Lúc đó trái bom không được giấu bên dưới áo khoác một shahid * mà dưới gầm xe của Gabriel. Những nạn nhân vụ nổ bom không phải là những người lạ, mà là Leah, vợ ông và Dani, đứa con trai độc nhất của Gabriel. Leah hiện đang sống trong bệnh viện tâm thần trên núi Herzl ở Jerusalem, giam cầm trong ngục tù ký ức với thân thể bị tàn phá vì bỏng. Leah chỉ có một cảm tưởng mơ hồ là Dani được chôn cất không xa chỗ ở của mình, trên núi Olives.
là ‘Người hùng’ theo quan điểm của Thánh chiến Hồi giáo.
Tối đó, những người trong đội không nhắc đến Leah và Dani, và họ cũng không dừng lại ở những chuỗi sự kiện đã dẫn Gabriel đến chỗ làm nhân chứng vô tình cho việc tử đạo của Farid Khan. Thay vào đó, họ trò chuyện về bạn bè, gia đình, sách mà họ đã đọc, phim mà họ đã xem, và về những thay đổi đáng kể đang tràn vào thế giới Ả Rập. Ở Ai Cập, cuối cùng chế độ quân chủ đã sụp đổ và làm dấy động một làn sóng phản đối đe dọa lật đổ triều đại vua chúa và các nhà độc tài thế tục đã cai trị từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đề tài nóng bỏng được tranh cãi tại Văn phòng và tại bàn ăn tối nay là những thay đổi này có đem lại nhiều an toàn cho Israel hoặc đặt nó vào một mối nguy hiểm lớn hơn. Với bản chất lạc quan tự nhiên, Yossi tin rằng người Ả Rập, nếu được cho quyền tự trị, sẽ từ chối liên kết với những ai muốn chiến tranh với Israel. Yaakov, người đã qua nhiều năm làm gián điệp chống lại chính quyền thù địch Ả Rập, xem Yossi là một kẻ ảo tưởng, và đó cũng gần như là ý kiến của những người trong bàn. Riêng Dina từ chối không đưa ra một nhận xét nào, vì cô còn bận suy nghĩ tập trung vào chồng hồ sơ để trên bàn phòng khách. Đầu óc Dina là một cái đồng hồ điểm giờ và Dina tin rằng mỗi giây phút lãng phí là một giây phút cho bọn khủng bố mưu toan và lập kế hoạch, chồng hồ sơ cần xem xét là một hứa hẹn cho những mạng sống được cứu rỗi. Chúng là những tài liệu thiêng liêng chứa đựng những bí mật mà chỉ có cô mới giải mã được.
Gần đến khuya bữa ăn mới kết thúc. Và rồi lại cãi nhau xem ai sẽ là người dọn bàn, rửa chén và lau khô. Lảng ra chỗ khác và để Dina làm quen với hồ sơ, Gabriel đưa Chiara lên phòng. Căn phòng ở tầng ba nhìn ra khu vườn phía sau nhà. Xa xa ngọn đèn đỏ của hệ thống cảnh báo không lưu nhấp nháy trên đỉnh ngọn tháp của đại học Georgetown như nhắc nhở đến điểm yếu của thành phố đối với khủng bố trên không.
“Em nghĩ có những chỗ tệ hơn để ở vài ngày,” Chiara nói. “Anh đã sắp xếp cho Mikhail và Sarah ra sao?”
“Cách xa nhau nhất có thể.”
“Chiến dịch này có cơ may nào đưa họ quay lại với nhau không?”
“Giống như thế giới Ả Rập bỗng nhiên nhìn nhận sự tồn tại của chúng ta vậy đó.”
“Tệ thế sao?”
“Anh e rằng như vậy.” Gabriel nâng túi xách của Chiara và để ở cuối chân giường. Chiếc túi thụng xuống vì nặng. “Em để gì trong này vậy?”
“Gilah gửi cho anh một ít đồ.”
“Đá à?”
“Thức ăn,” Chiara nói. “Anh biết Gilah rồi, bà ấy nghĩ anh gầy quá.”
“Bà ấy sao rồi?”
“Giờ khi mà Ari không ở nhà nhiều, bà ta có vẻ ổn hơn.”
“Cuối cùng thì ông ta có đăng ký học lớp làm đồ gốm mà ông ấy luôn muốn học không?”
“Ông ta quay lại Đại lộ King Saul rồi.”
“Ông ta làm gì ở đó?”
“Uzi nghĩ ông ta cần làm một điều gì để tránh ngồi không, nên ông ta tự biến mình thành điều phối viên trong chiến dịch của anh. Ông ta muốn điều đầu tiên anh làm vào sáng mai là gọi cho ông ta.” Chiara hôn lên má Gabriel và mỉm cười. “Mừng anh về nhà anh yêu.”