Chương 16 GEORGETOWN, WASHINGTON, D.C.
Có một chân lý hiển nhiên về mạng lưới khủng bố: việc sắp xếp lại những mảnh ghép vào vị trí không khó như người ta nghĩ. Nhưng một khi tên đầu sỏ bóp cò và thực hiện cuộc tấn công đầu tiên thì yếu tố gây ngạc nhiên không còn nữa và mạng lưới khủng bố hiện nguyên hình của nó. Trong những năm đầu tiên của cuộc chiến chống khủng bố – khi nhóm Tháng Chín ĐenBlack September của Palestine và tên khủng bố Carlos Chó rừngthe Jackal chạy lung tung trong trạng thái điên loạn, với sự hỗ trợ của những nhóm cánh tả châu Âu ngu ngốc như nhóm Baader-Meinhof và nhóm Lữ đoàn ĐỏRed Brigades – những nhân viên tình báo đã sử dụng câu dây nghe lén điện thoại, giám sát vật lý và những công việc theo kiểu xưa cũ của những thám tử để nhận dạng một thành viên của tổ chức. Giờ đây, với sự phát triển của Internet và thông tin liên lạc toàn cầu bằng vệ tinh, diễn biến của chiến trường đã thay đổi. Qua Internet quân khủng bố đã có một công cụ mạnh để tổ chức, truyền cảm hứng và liên lạc, nhưng cùng lúc Internet đã cung cấp cho cơ quan tình báo những phương tiện theo dõi từng cử động của khủng bố. Không gian mạng giống như một khu rừng mùa đông. Quân khủng bố có thể trốn một thời gian trên Internet, nảy sinh những âm mưu và tổ chức lực lượng, nhưng chúng cũng không thể vào và ra mà không để lại dấu vết trên tuyết. Theo dõi những dấu vết trong một khu rừng ảo, một nơi tăm tối và rắc rối, lang thang vô định và không mục đích trong khi những người vô tội chết là một thử thách đối với những sĩ quan chống khủng bố khi phải tìm và theo dõi những dấu vết đúng.
Gabriel và đội của ông thận trọng bước chân vào thế giới tăm tối đó sáng hôm sau, khi cơ quan tình báo Anh, bằng một thỏa thuận chính thức, chia sẻ với Mỹ, người họ hàng của họ, kết quả đầu tiên của cuộc thẩm vấn về vụ đánh bom ở Covent Garden. Kèm trong tài liệu là nội dung giao dịch của Farid Khan trong máy tính ở nhà và nơi làm việc, bản in của từng số điện thoại gọi từ di động của hắn và một danh sách của những nhân vật Hồi giáo cực đoan nổi tiếng mà hắn đã gặp khi còn là thành viên của Hizb ut-Tahrir và al-Muhajiroun. Còn có cả một bản sao cuốn băng thu lại cảnh tự sát, và nhiều tấm hình thu được từ camera quan sát trong những tháng cuối cùng của cuộc đời Farid. Trong tấm hình cuối cùng, Farid đứng ở Covent Garden, tay giơ trên đầu, một đốm lửa phun ra từ thắt lưng đầy thuốc nổ. Cách đó chừng một mét, nằm trên mặt đất, được hai người đàn ông bảo vệ, là Gabriel. Khi tấm hình được phóng to, có thể trông thấy bóng một khẩu súng trong tay trái Gabriel.
Carter đã phát tài liệu cho CTC ở Langley và NSA ở Fort Meade, Maryland. Và không để cả hai cơ quan biết, Carter đã gửi một bản sao mỏng đến ngôi nhà đường N. Ngày hôm sau, ông ta gửi một gói rất tương tự từ Copenhagen, nhưng hết trọn một tuần trước khi ông xuất hiện cùng với tài liệu ở Paris. “Người Pháp vẫn chưa nghĩ rằng chúng ta đều ở trong vụ này,” Carter nói. “Họ nhìn cuộc tấn công như một thất bại trong hệ thống tình báo của họ, có nghĩa rằng anh có thể chắc chắn là chúng ta chỉ biết một phần của câu chuyện.”
Gabriel và đội xem xét tài liệu nhanh nhất có thể, nhưng với sự kiên nhẫn và chú tâm đến chi tiết được yêu cầu trong một công việc cần nhiều nỗ lực như vậy. Theo bản năng, Gabriel bảo họ tiếp cận với đống tài liệu như một bức tranh to lớn đã bị tổn thất trên phạm vi rộng. “Đừng đứng ra xa và cố gắng nhìn tất cả ngay tức thì,” ông cảnh báo. “Điều này chỉ làm bối rối thêm. Hãy làm theo cách của mình, từ ngoài vào, một cách chậm rãi. Hãy chú ý đến những chi tiết nhỏ – một bàn tay, mắt, đường viền của quần áo, một sợi chỉ nhỏ len qua mỗi cuộc tấn công. Lúc đầu các bạn sẽ không thể nhìn thấy ngay, nhưng tôi hứa với các bạn, nó ở trong chồng tài liệu này.”
Với sự trợ giúp của NSA và đội khai phá dữ liệu của Chính phủ làm việc ở những văn phòng vô danh quanh vành đai Capital Beltway, đội của Gabriel đã đào sâu bộ nhớ của máy tính lớn và những máy chủ phân tán trên thế giới. Số điện thoại này dẫn đến số điện thoại kia, địa chỉ e-mail này dẫn đến địa chỉ e-mail kia. Họ đọc hàng ngàn tin nhắn bằng hàng tá ngôn ngữ khác nhau. Lùng sục những lịch sử duyệt web để xem cấu trúc dữ liệu mô tả cách thức, đối tượng thực hiện, chứng cứ bằng hình ảnh của mục tiêu, tìm tòi trong lịch sử duyệt web những ham muốn thầm kín và đam mê bị cấm kỵ.
Dần dần, đường nét không rõ rệt của một mạng lưới khủng bố bắt đầu có hình thù. Mạng lưới được phân tán và mù mờ – chỗ này là tên một gián điệp tiềm năng ở Lyon; chỗ kia là một địa chỉ nơi có khả năng an toàn tại Malmö; một chỗ khác là số điện thoại ở Karachi, và còn chỗ kia là một trang web có nguồn gốc không rõ ràng để có thể tải những video của những vụ đánh bom và xử trảm, hình ảnh khiêu dâm của thế giới Thánh chiến. Cơ quan tình báo phương Tây, nghĩ rằng đang làm việc với CIA, đã tỏ thiện chí và vui vẻ gửi tài liệu mà đáng lý ra họ phải giữ lại, và cảnh sát ngầm của thế giới Hồi giáo cũng vậy. Chẳng bao lâu, bức tường của phòng vẽ đã được phủ đầy bởi ma trận nhức óc của giới tình báo. Eli Lavon so sánh hình ảnh này giống như nhìn lên bầu trời mà không cần sự trợ giúp của biểu đồ tinh tú. Eli nói thật dễ chịu, nhưng không hữu ích lắm khi mạng sống của nhiều người đang bị đe dọa. Bên ngoài có một nguyên lý ngăn nắp, một bàn tay dẫn dắt của khủng bố. Rashid, giáo sĩ có uy tín, đã gầy dựng một mạng lưới bằng miệng lưỡi hùng hồn và quyến rũ của mình, nhưng một kẻ khác đã châm mồi để thực hiện ba vụ nổ bom trên ba thành phố châu Âu, mỗi vụ ở một thời khắc chính xác. Kẻ đó không phải là nghiệp dư. Hắn là bậc thầy chuyên nghiệp trong giới khủng bố.
Gọi được tên và đối mặt với con quái vật này là nỗi ám ảnh của Dina. Sarah, Chiara và Eli Lavon làm việc không mệt mỏi bên cạnh Dina trong khi Gabriel giữ vai trò người chạy việc và đưa tin. Hai lần một ngày, Dina đưa cho ông danh sách những câu hỏi cần trả lời gấp. Thỉnh thoảng, Gabriel đến tòa đại sứ Israel ở xa phía tây bắc Washington và chuyển cho Shamron qua một đường liên kết an toàn. Vào những thời điểm khác, ông sẽ đưa cho Adrian Carter, và ông ta sẽ đi hành hương đến Fort Meade và nói chuyện riêng với đội khai phá dữ liệu. Vào tối ngày lễ Tạ ơn, trong không khí dòng người tràn xuống đường ở Georgetown, Carter mời Gabriel đến một quán cà phê ở đường số 35 để giao một gói tài liệu dày cộm.
“Dina làm đến đâu rồi?” vừa hỏi Carter vừa cạy nắp của tách cà phê Mỹ mà ông không có ý định uống.
“Ngay cả tôi cũng không biết,” Gabriel trả lời. “Cô ta có cách của mình. Tôi chỉ cố không cản trở công việc của cô ấy.”
“Anh biết đó, cô ta đánh bại chúng ta. Cơ quan Tình báo Mỹ có hai trăm nhân viên phân tích đang cố bẻ khóa vụ này và họ bị đánh bại chỉ bởi một phụ nữ.”
“Bởi lẽ cô ta biết chính xác chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta không tiêu diệt chúng. Và cô ta có vẻ không cần ngủ.”
“Cô ta có một giả thuyết nào về thủ phạm không?”
“Cô ta cảm thấy dường như mình biết hắn.”
“Vấn đề cá nhân à?”
“Đối với Dina, luôn luôn là vấn đề cá nhân, Adrian à. Đó là lý do tại sao cô ta lại giỏi như vậy trong công việc.”
Dù Gabriel không muốn thừa nhận, nhưng vụ này, đối với ông đã trở thành vấn đề cá nhân. Thực vậy, khi Gabriel không ở tòa đại sứ hoặc gặp gỡ Carter, ông thường ở “Rashidistan”, từ mà đội dùng khi đề cập đến thư viện chật hẹp tại căn nhà đường N. Bốn bức tường đầy hình ảnh của giáo sĩ ăn ảnh trên ti vi. Được sắp xếp theo thứ tự xảy ra, họ thiết lập biểu đồ của sự vươn lên không thể tin được của hắn, từ một kẻ truyền giáo địa phương tồi tàn ở San Diego thành một nhà lãnh đạo của mạng lưới khủng bố Thánh chiến. Bề ngoài của hắn có thay đổi chút ít trong thời gian này – cũng hàm râu thưa, cặp kính của một con mọt sách, cặp mắt nâu biểu lộ sự nhân từ. Hắn không giống một kẻ có khả năng sát nhân tập thể, hoặc ngay cả không giống một kẻ có cảm hứng để thực hiện việc ám sát. Gabriel không mấy ngạc nhiên; ông đã từng bị những kẻ có bàn tay tu sĩ tra tấn và có lần giết một bậc thầy khủng bố Palestine có gương mặt trẻ con. Ngay cả bây giờ, sau hơn hai mươi năm, Gabriel vẫn đấu tranh để hòa giải sự ngọt ngào của một gương mặt vô hồn với nỗi chấn động sâu sắc vì bàn tay vấy máu của ông.
Vũ khí lợi hại nhất của Rashid không phải là cái bề ngoài tầm thường của hắn mà là giọng nói của hắn. Gabriel đã nghe những bài giảng của Rashid, cả bằng tiếng Ả Rập, cả bằng ngôn ngữ giao tiếp tiếng Anh Mỹ của hắn, và ông cũng nghe nhiều cuộc phỏng vấn sâu sắc của hắn với giới báo chí sau ngày 11/9. Chủ yếu là Gabriel nghe lại những đoạn ghi âm cách đấu trí của Rashid khi CIA thẩm vấn hắn. Một phần Rashid là thi sĩ, một phần là nhà truyền giáo, một phần là giáo sư của thánh chiến. Hắn khuyến cáo người Mỹ rằng dân số dứt khoát nghiêng về phía kẻ thù của họ, rằng thế giới Hồi giáo là một thế giới trẻ, đang lớn dần, sôi sục nỗi tức giận và nhục nhã. “Trừ phi một điều gì đó được thực hiện để làm thay đổi phương trình, các bạn thân mến, cả một thế hệ sẽ bị mất dưới tay thánh chiến.” Điều mà Mỹ cần là một cầu nối với thế giới Hồi giáo – và Rashid al-Husseini là chiếc cầu nối đó.
Mệt mỏi vì sự hiện diện ngấm ngầm của Rashid, phần còn lại của đội yêu cầu Gabriel đóng chặt cửa của thư viện khi ông nghe băng thu âm. Nhưng trong đêm khuya, khi phần đông đội đã đi ngủ, ông không nghe lời họ, chỉ để giải thoát khỏi cảm giác lo sợ khi bị tù túng bởi giọng nói của Rashid. Gabriel luôn thấy Dina nhìn chăm chú vào những mảnh ghép xếp trên tường của phòng vẽ. Gabriel sẽ nói “Đi ngủ đi Dina,” và Dina sẽ trả lời, “Tôi sẽ đi ngủ khi ông đi.”
Vào ngày thứ Sáu đầu tiên của tháng Mười hai, khi tuyết phủ trắng xóa những đường phố của Georgetown, Gabriel nghe lại cuộc phỏng vấn cuối cùng của Rashid với những người huấn luyện hắn tại Cơ quan Tình báo. Đó là cuộc phỏng vấn đêm trước ngày đào tẩu của hắn. Rashid có vẻ phấn khích hơn bình thường và có vẻ hơi bực mình. Cuối cuộc phỏng vấn, hắn nói tên một thầy tế ở Oslo cho người phụ trách vấn đề. Theo Rashid thì thầy tế này đang quyên góp tiền cho quân kháng chiến ở Iraq. “Họ không phải là quân kháng chiến, họ là quân khủng bố,” nhân viên CIA nói rõ ràng. “Thứ lỗi cho tôi, Bill,” Rashid sử dụng biệt hiệu của người nhân viên CIA khi trả lời, “nhưng đôi khi tôi khó nhớ là tôi đang ở bên phe nào.”
Gabriel tắt máy tính và đi vào phòng vẽ. Im lặng, Dina đứng trước ma trận, chà lên chân, cái chân luôn làm cô đau khi cô mệt.
“Đi ngủ đi Dina,” Gabriel nói.
“Tối nay thì không,” cô trả lời.
“Cô đã tìm ra hắn rồi?”
“Tôi nghĩ vậy.”
“Là ai?”
“Malik,” Dina nhẹ nhàng nói. “Và cầu xin Chúa thương xót tất cả chúng ta.”