Chương 17 GEORGETOWN, WASHINGTON, D.C.
Qua hai giờ sáng một vài phút, một thời gian khủng khiếp, như câu nói nổi tiếng của Shamron, khi những âm mưu lỗi lạc ít khi nào để lại dấu vết. Gabriel đề nghị chờ đến sáng mai, nhưng sự nôn nóng của Dina quá lớn để có thể chờ. Đích thân Dina đánh thức đội và bồn chồn đếm từng bước trong phòng vẽ trong khi chờ pha cà phê. Cuối cùng, Dina nói bằng giọng khẩn trương nhưng kính cẩn. Malik, bậc thầy của khủng bố đáng được nể phục.
Bắt đầu báo cáo của mình, Dina nhắc nhở đội về dòng dõi của Zubair Malik – dòng dõi mà chỉ có thể đưa đến một kết quả. Hậu duệ của bộ lạc al-Zubair – một gia đình pha lẫn giữa Palestine và Syria đến từ làng Abu Ghosh, cận tây Jerusalem – Malik được sinh ra trong trại tị nạn Zarqa, Jordan. Zarqa là một nơi khốn khổ, với những tiêu chuẩn tồi tệ và là mảnh đất nuôi dưỡng quân Hồi giáo cực đoan. Là một thanh niên thông minh nhưng vô định, Malik trải qua phần nhiều thời gian tại đền thờ Hồi giáo al-Falah. Chính nơi này, hắn bị mê hoặc bởi sự kích động của một thầy tế thuộc nhóm Salafi, người giới thiệu Malik vào phong trào Kháng chiến Hồi giáo, được biết rộng rãi dưới tên Hamas. Malik gia nhập nhóm Lữ đoàn Izzaddin al-Qassam và học về những kỹ thuật của khủng bố với những người hành động cực kỳ có hiệu quả trong nghề. Được sinh ra để làm lãnh đạo và một nhà tổ chức nhiều khả năng, Malik lên cấp rất nhanh và vì sự bắt đầu lớn mạnh của phong trào Intifada Thứ hai, Malik trở thành bậc thầy về khủng bố. Trú ẩn an toàn ở trại Zarqa, hắn âm mưu một vài vụ tấn công đẫm máu nhất trong thời gian đó, trong đó có một vụ đánh bom cảm tử một hộp đêm ở Tel Aviv, giết chết ba mươi ba mạng người.
“Sau vụ tấn công này,” Dina nói, “thủ tướng đã ký một sắc lệnh cho phép ám sát Malik. Malik trốn sâu trong trại Zarqa và ấp ủ một âm mưu lớn nhất – tấn công đột ngột bằng bom vào bức tường phương Tây. Rất may là chúng ta đã bắt giữ ba tên shahid trước khi chúng đạt được mục tiêu. Xem như đây là lần thất bại duy nhất của Malik.”
Dina tiếp, mùa hè năm 2004, đối với Malik rõ ràng là cuộc xung đột giữa Israel và Palestine thuộc tầm cỡ nhỏ. Lấy cảm hứng từ 11/9, cải trang thành một người đàn bà, Malik ra khỏi trại và đến Amman để gặp nhà tuyển dụng al-Qaeda. Sau khi đọc bayat, lời tuyên thệ trung thành với Osama Bin Laden, Malik được đưa bí mật đến biên giới Syria. Sáu tuần sau, hắn vào Iraq.
“Malik tinh vi hơn những thành viên khác của nhóm al-Qaeda cũ,” Dina nói. “Hắn dành nhiều năm để hoàn thiện kỹ thuật tiếp xúc với lực lượng khủng bố vượt trội nhất trên thế giới. Hắn không chỉ là chuyên gia chế tạo bom, mà hắn còn biết gài những shahid của hắn vào những nơi được canh chừng chặt chẽ nhất. Hắn được xem như là người vạch ra những cuộc nổi loạn hiệu quả cao nhất và những vụ tấn công gây nhiều ấn tượng. Thành quả sáng chói nhất của hắn là đợt đánh bom trong một ngày ở quận Shiite, Baghdad giết chết hơn hai trăm người.”
Vụ tấn công cuối cùng của Malik tại Iraq là đền thờ Hồi giáo Shiite đã gây ra cái chết của năm mươi tín đồ. Từ đó, hắn trở thành mục tiêu truy lùng lớn của Lực lượng đặc biệt 6-26, Bộ Tư lệnh Hoa Kỳ, đơn vị phụ trách những chiến dịch đặc biệt, và đơn vị tình báo. Mười ngày sau vụ nổ bom, lực lượng đặc biệt nhận được tin Malik trốn trong một ngôi nhà an toàn mười dặm phía bắc Baghdad, cùng với hai nhân vật cao cấp khác của al-Qaeda. Tối đó máy bay phản lực của lực lượng Mỹ F-16 tấn công ngôi nhà với hai quả bom định hướng bằng tia laser, nhưng khi tìm kiếm trong tòa nhà đổ nát, họ chỉ tìm thấy hai thi thể. Cả hai đều không phải của Malik al-Zubair.
“Rõ ràng là hắn đã lẻn ra khỏi căn nhà một vài phút trước khi bom rơi xuống.” Dina nói. “Sau này, hắn nói với các đồng đội rằng Allah đã mách bảo hắn rời khỏi căn nhà. Sự cố này chỉ làm tăng thêm lòng tin của hắn vào việc Thượng Đế đã chọn hắn để làm việc lớn.”
Và rồi Malik quyết định đã đến lúc nâng hoạt động lên tầm quốc tế. Hắn đã phát triển sự thích thú giết người Mỹ tại Iraq, giờ hắn muốn giết người Mỹ trên chính quê hương của họ, nên hắn đến Pakistan để xin thêm viện trợ và sự trợ giúp từ trụ sở al-Qaeda. Bin Laden đã chăm chú lắng nghe và đuổi hắn đi.
Dina nhanh chóng tiếp. “Thật ra, có thể nghĩ rằng Ayman al-Zawahiri là người đứng sau quyết định đuổi Malik đi tay không. Gã Ai Cập này còn ấp ủ nhiều âm mưu chống lại phương Tây và không muốn bị phương Tây đe dọa vì một tên Palestine mới nổi đến từ Zarqa.”
“Cho nên Malik đến Yemen và đề nghị với Rashid?” Gabriel hỏi.
“Chính xác.”
“Bằng chứng,” Gabriel nói. “Bằng chứng đâu?”
“Tôi là một sĩ quan tình báo phụ trách phân tích.” Không cần biện giải, Dina tiếp. “Tôi ở vị thế ít khi nào có chứng cứ tuyệt đối. Cái tôi có thể nói với các bạn chỉ là phỏng đoán, dựa trên một số dữ kiện thích đáng.”
“Ví dụ như?”
“Damascus,” cô nói. “Vào mùa thu năm 2008, Văn phòng nhận được một tin từ một người đáng tin cậy ở Cơ quan Tình báo Syria cho biết rằng Malik đang trốn ở Syria. Hắn luôn di chuyển giữa những nhà an toàn của những thành viên trong gia tộc al-Zubair. Dưới sự hối thúc của Shamron, thủ tướng cho phép chúng tôi lên kế hoạch thủ tiêu Malik, việc lẽ ra phải thực hiện lâu rồi. Lúc đó Uzi vẫn còn là người điều hành những đặc vụ. Ông ta cử một nhóm đặc vụ đến Damascus – Mikhail Abramov là một thành viên trong đội đó,” Dina liếc nhìn Mikhail và nói tiếp rất nhanh. “Chỉ trong vài ngày, họ đã giám sát hoàn toàn được Malik.”
“Tiếp đi Dina.”
“Mikhail sẽ cho các bạn biết là Malik không dễ theo dõi. Hắn luôn thay đổi hình dáng bên ngoài của mình – tóc, kính, mũ, quần áo, ngay cả cách đi đứng – nhưng nhóm đặc vụ vẫn bám sát được hắn. Vào tối ngày 23 tháng Mười, họ thấy Malik vào một căn hộ của một người đàn ông có tên là Kernel Arwish. Arwish thích tự thủ vai một người phương Tây ôn hòa muốn ép người của mình theo kịp thế kỷ 21. Sự thật, hắn là một người Hồi giáo tham gia không tích cực những hoạt động bên ngoài al-Qaeda và những chi nhánh của họ. Nhờ vậy Arwish có thể đi lại giữa Trung Đông và phương Tây mà không bị nghi ngờ, khiến hắn trở thành một người đưa tin và chạy vặt rất có giá trị.” Dina nhìn thẳng vào Gabriel và tiếp. “Tôi tin rằng cái tên Kernel và địa chỉ của hắn đã quen thuộc với ông từ khi ông dành thời gian nghiên cứu hồ sơ về Rashid.”
“Khi đến Damascus, với tư cách là người đại diện cho CIA, Rashid đã dự bữa tiệc tối tại căn hộ của Kernel Arwish vào 2004,” Gabriel nói. “Sau đó hắn đã nói với sĩ quan CIA huấn luyện hắn rằng hắn và Arwish đã thảo luận về cách làm giảm bớt lửa đạn của Thánh chiến Hồi giáo.”
“Và nếu ông tin rằng điều này…”
“Không là gì ngoài sự trùng hợp, Dina.”
“Cũng có thể, nhưng tôi đã được huấn luyện để không bao giờ tin vào sự trùng hợp. Và ông cũng vậy Gabriel.”
“Chuyện gì đã xảy ra cho chiến dịch chống lại Malik?”
“Hắn đã lọt qua sự kiểm soát của chúng ta giống như đã lọt qua tay người Mỹ ở Baghdad. Uzi thấy nên giám sát Arwish, nhưng điều này trở nên không cần thiết vì thi thể của Arwish được tìm thấy trên sa mạc phía đông Damascus. Hắn đã được ban cho một cái chết không đau đớn.”
“Malik cho người giết hắn?”
“Có thể là Malik, và cũng có thể là Rashid, điều đó không quan trọng. Arwish chỉ là con cá bé trong cái ao lớn. Hắn đã hoàn thành vai trò được giao. Hắn đã truyền tải một tin và sau đó hắn là vật hy sinh.”
Gabriel có vẻ chưa được thuyết phục. “Cô còn biết thêm gì?”
“Thiết kế của thắt lưng những tên shahid đeo ở Paris, Copenhagen và London,” Dina nói. “Chúng giống thắt lưng mà Malik đã sử dụng trong đợt tấn công của Phong trào Intifada Thứ hai và cũng giống cái mà hắn đã sử dụng tại Baghdad.”
“Không cần thiết phải là Malik đã thiết kế thắt lưng này. Có thể nó đã xuất hiện từ lâu rồi ở những máy may của thế giới ngầm quân Thánh chiến Hồi giáo.”
“Malik không thể đưa lên Internet mẫu thiết kế này để cả thế giới đều thấy. Cách đấu dây điện, kíp nổ, hình dáng của chỗ chứa thuốc nổ và mảnh đạn, tất cả đều là kỹ thuật mới của Malik. Cách này đã cho tôi biết chính là hắn.”
Gabriel im lặng. Dina nhướng mày và hỏi, “Không còn ý kiến nào về sự trùng hợp chứ?”
Gabriel tỏ vẻ không chú ý đến lời nhận xét. “Lần cuối mà chúng ta biết là hắn ở đâu?”
“Theo một vài báo cáo chưa được kiểm chứng là hắn đã trở về Zarqa và người điều hành của chúng ta ở trạm Thổ Nhĩ Kỳ cho biết có tin đồn rằng hắn đang sống sang trọng ở Istanbul. Nhưng rốt cuộc tin đồn này không đúng. Đối với Văn phòng thì Malik là một bóng ma.”
“Ngay cả ma cũng cần hộ chiếu.”
“Chúng ta tin rằng hắn mang hộ chiếu Syria được một nhà cải cách lớn ở Damascus trao cho. Rất tiếc là chúng ta không biết hắn đang sử dụng tên gì và hình dáng hắn ra sao. Tấm hình cuối cùng của Malik được chụp hơn hai mươi năm rồi và giờ thì vô dụng.”
“Có một ai đó thân thuộc với Malik, một thân nhân, một người bạn, một đồng chí cũ của hắn khi hắn ở Hamas, mà chúng ta có thể tiếp cận không?”
“Chúng ta đã thử tìm khi Malik đánh bom chúng ta tơi bời trong lần phong trào Intifada Thứ hai,” Dina lắc đầu nói. “Không còn ai trong gia tộc al-Zubair ở Israel hoặc trên lãnh thổ và những người trong trại Zarqa quá gắn bó với cuộc chiến để hợp tác với chúng ta.” Ngừng lại một lúc, Dina tiếp. “Tuy nhiên chúng ta còn một điều ủng hộ chúng ta.”
“Điều gì?”
“Tôi nghĩ mạng lưới của Malik có thể đang thiếu tiền.”
“Thử nói xem ai?”
Dina chỉ về phía tấm hình Farid Khan, kẻ đánh bom Covent Garden và nói.
“Là hắn.”