← Quay lại trang sách

Chương 22 MADRID-PARIS

Theo như dự đoán, cảm giác bình an xưa đã quay về với Madrid. Đã bảy năm, kể từ vụ đánh bom đoàn tàu hỏa và những ký ức của buổi sáng khủng khiếp hôm đó đã phai nhòa từ lâu. Để trả lời cho vụ thảm sát công dân của mình, Tây Ban Nha đã rút quân ra khỏi Iran và ra mắt cái được mô tả là “Liên minh các nền văn minh” với thế giới Hồi giáo. Theo các nhà bình luận chính trị, thì việc này đã thành công trong việc chuyển hướng sự nổi giận của Hồi giáo từ Tây Ban Nha sang Mỹ, nơi thực sự đã gây ra sự căm giận này. Chiếu theo những yêu sách của al-Qaeda có thể bảo vệ Tây Ban Nha khỏi một cuộc tấn công khác, hoặc ít ra họ đã nghĩ vậy.

Trái bom nổ lúc 9:12 tối, ở giao lộ của hai con đường đông đúc gần Puerta del Sol. Quả bom được lắp ráp trong một ga ra thuê ở một quận công nghiệp phía nam thành phố và giấu trong một chiếc xe tải nhỏ hiệu Peugeot. Nhờ vào sự lắp ráp khéo léo nên lực phá nổ ban đầu hướng về phía trái của một quán ăn phổ biến trong giới quan chức tinh nhuệ của Tây Ban Nha. Không có một chứng cứ mắt thấy tai nghe về chuyện gì đã thực sự xảy ra bên trong quán, bởi không còn ai sống sót để kể lại. Nếu có ai sống sót, thì họ sẽ kể lại giây phút ngắn ngủi của những thân thể bay trong những mảnh kính, dao, nĩa, thìa, đồ sứ và máu. Và rồi nguyên tòa nhà sụp đổ, chôn vùi người chết, người hấp hối bên dưới một núi đá vỡ vụn.

Sự thương tổn lớn hơn cả những mong đợi của quân khủng bố. Mặt tiền bị tách ra khỏi tòa nhà của nguyên một dãy, phơi bày những mạng người mà chỉ cách đây vài phút còn sống yên lành. Nhiều cửa hàng và quán cà phê gần đó bị thiệt hại và có thương vong, những cây nhỏ dọc trên đường rụng hết lá hoặc rễ bị bứng hoàn toàn. Không còn dấu vết nào của chiếc xe tải nhỏ, chỉ còn lại một hố lớn trên đường. Cuộc điều tra của cảnh sát Tây Ban Nha trong hai mươi bốn giờ đầu tiên, cho thấy rõ ràng là quả bom được điều khiển từ xa. Sau này, họ tìm ra DNA của một shahid văng tung tóe giữa những đống gạch vụn. Hắn chỉ mới hai mươi, là thợ mộc người Maroc thất nghiệp đến từ quận Lavapiés của Madrid. Trong cuốn video cảm tử, hắn nói một cách trìu mến về Yaqub al-Mansur, một vị vua Almohad của thế kỷ mười hai, được biết đến vì những cuộc đột kích đẫm máu vào lãnh thổ người Thiên Chúa giáo.

Để chống lại bối cảnh kinh khủng này, Zoe Reed của kênh CNBC về tin tức thị trường của Mỹ, gọi đến văn phòng quảng cáo của AAB Holdings, trước đây ở Riyadh và Geneva, sau này ở đại lộ Haussmann, ở quận chín của Paris. Thời gian lúc đó là bốn giờ mười phút chiều, thời tiết Paris dự đoán là u ám. Thông tin không được đáp trả ngay, theo quy tắc của AAB.

Như tạp chí Forbes đăng hàng năm, AAB là một trong những công ty thành công nhất trên thế giới chuyên về đầu tư những sáng tạo mới. Doanh nghiệp được Abdul Aziz al-Bakari sáng lập vào năm 1979. Đối với bạn bè và những người hay chê bai, chỉ trích Abdul al-Bakari là Zizi. Ông ta là người con trai thứ mười chín của một nhà buôn tầm cỡ. Bố ông đã làm chuyên viên khách hàng cao cấp và cố vấn tài chính cho Ibn Saud, người sáng lập vương quốc và là vị quốc vương chuyên chế đầu tiên. Những cổ phần của AAB bao phủ một phạm vi rộng lớn và rất sinh lợi. Lĩnh vực hoạt động của AAB là vận chuyển và khai thác mỏ, hóa chất và thuốc. AAB có cổ phần chính ở những ngân hàng Mỹ và châu Âu. Đơn vị phụ trách bất động sản và khách sạn của AAB là một trong những đơn vị lớn nhất thế giới. Zizi đi du lịch bằng máy bay 747 mạ vàng và là chủ nhân của một dãy cung điện trải dài từ Riyadh đến French Riviera và Aspen, di chuyển trên biển bằng du thuyền Alexandra có kích cỡ của một chiến hạm. Bộ sưu tập thuộc trường phái Ấn tượng và Mỹ thuật Hiện đại được xem như một bộ sưu tập lớn nhất trong những bộ sưu tập cá nhân, và trong đó có bức Marguerite Gachet bên bàn trang điểmMarguerite Gachet at Her Dressing Table của Vincent van Gogh mua từ phòng tranh Mỹ thuật Isherwood, 7-8 Mason’s Yard, St. James’s, London. Người môi giới mua bức tranh này là một phụ nữ trẻ người Mỹ, Sarah Bancroft, đã làm việc trong thời gian ngắn cho Zizi với tư cách là tư vấn về nguồn gốc của hội họa.

Zizi là mục tiêu của nhiều lời đồn đãi, đặc biệt là về nguồn gốc tài sản to lớn của ông ta. Những tờ quảng cáo khẳng định rằng Zizi hoàn toàn được thừa hưởng tài sản này từ bố mình, nhưng sau một cuộc điều tra cẩn thận của một tờ báo doanh nghiệp Mỹ có thẩm quyền, lời khẳng định này được cho là không xác thực. Theo bài báo thì số tiền mặt khổng lồ của AAB chỉ có thể giải thích bằng một điều duy nhất: số tiền này được sử dụng như một bình phong cho hoàng gia Saud để âm thầm tái đầu tư cho việc xuất khẩu dầu mỏ trên toàn thế giới. Bị xúc phạm vì bài báo, Zizi dọa sẽ kiện. Sau này, nghe lời khuyên của những luật sư, ông thay đổi tâm tính, “sự trả thù tốt nhất là sống tốt,” ông phát biểu với một nhà báo của tờ Wall Street Journal . “Và điều này tôi biết cách làm.”

Có thể là vậy, nhưng những người phương Tây được vào trong nhóm thân tín của Zizi luôn cảm thấy ông ta có gì đó bồn chồn. Zizi rất hào phóng cho những buổi tiệc, mặc dù ông không tỏ vẻ thích thú. Ông không hút thuốc, cũng không uống rượu và từ chối sự hiện diện của chó và thịt heo. Ông cầu nguyện năm lần một ngày; mỗi mùa đông, khi những cơn mưa làm sa mạc Saudi nở rộ, ông lui về một trại quân hẻo lánh ở Nejd để suy gẫm và săn bắn với những con chim ưng săn mồi. Ông khẳng định rằng mình là hậu duệ của Muhammad Abdul Wahhab, một nhà truyền giáo của thế kỷ mười tám. Lời rao giảng của nhà truyền giáo này, về một đạo Hồi khắc khổ và khe khắt đã chính thức trở nên tín ngưỡng của Ả Rập Saudi. Zizi đã xây dựng nhiều nhà thờ Hồi giáo trên toàn thế giới, kể cả tại Mỹ và Tây Âu, và ông đã tài trợ nhiều cho Palestine. Những doanh nghiệp muốn kinh doanh với AAB biết rất rõ nên cử người Do Thái đến gặp Zizi. Theo lời đồn thì Zizi ghét Do Thái còn hơn là ghét những thua lỗ trong các vụ đầu tư.

Hóa ra những hoạt động từ thiện của Zizi vượt xa hơn những gì báo chí biết, ông cũng đóng góp hậu hĩnh cho những quỹ từ thiện liên quan đến phe cực đoan Hồi giáo và ngay cả dính líu trực tiếp đến al-Qaeda. Dần dà Zizi đã bước qua lằn ranh mỏng manh nhưng đầy hứa hẹn giữa những nhà tài chính với những người giúp cho quân khủng bố và chính quân khủng bố. Kết quả của việc đóng góp này là cuộc tấn công vào Vatican để lại hơn bảy trăm người chết và phá hủy mái vòm của vương cung Thánh đường Thánh Phê-Rô. Với sự trợ giúp của Sarah Bancroft, Gabriel đã truy đuổi và dồn đến đường cùng gã đàn ông lập kế hoạch tấn công – một sĩ quan phản bội hàng ngũ tình báo Ả Rập tên Ahmed Bin Shafiq – và đã giết hắn trong một khách sạn ở Istanbul. Một tuần sau, ông cũng giết Zizi ở bến tàu Saint-Pierre, ở Cannes.

Mặc dù gắn bó với truyền thống Ả Rập, Zizi chỉ có hai vợ và đều ly dị cả hai. Ông có một người con độc nhất – cô con gái xinh đẹp Nadia. Nadia chôn bố mình theo truyền thống Wahhabi, dưới một ngôi mộ không bia ở một nơi bỏ phế, không người chăm sóc và ngay sau đó củng cố việc nắm giữ tài sản của bố mình. Cô chuyển trụ sở của AAB châu Âu từ Geneva, nơi mà cô thấy buồn chán, sang Paris, nơi mà cô thấy thoải mái hơn. Một số ít nhân viên sùng đạo của doanh nghiệp từ chối làm việc cho một phụ nữ, đặc biệt là một phụ nữ từ bỏ tấm mạng che mặt và uống rượu, nhưng phần đông nhân viên thì ở lại. Dưới tay Nadia, công ty đầu tư vào những lĩnh vực trước đây không có tên trong phạm vi hoạt động của mình. Nadia mua được một công ty thời trang nổi tiếng của Pháp, một công ty sản xuất các mặt hàng da thuộc cao cấp của Ý, một phần đầu tư đáng kể vào một ngân hàng của Mỹ, và một công ty sản xuất phim của Đức. Cô cũng thay đổi đáng kể số cổ phần của cá nhân cô. Nhiều căn nhà và đất của bố cô được âm thầm bán đi, trong số đó có chiếc du thuyền Alexandra và máy bay 747. Giờ Nadia chỉ sử dụng một chiếc Boeing Business Jet khiêm tốn và chỉ sở hữu có hai ngôi nhà – một biệt thự thanh nhã ở đại lộ Foch, Paris và một cung điện sang trọng ở Riyadh mà Nadia ít khi đến. Dù thiếu sự đào tạo trong kinh doanh chính quy, nhưng Nadia tỏ ra là một người thành thạo và có khả năng lãnh đạo. Tổng giá trị tài sản dưới quyền kiểm soát của AAB lớn hơn bao giờ hết trong lịch sử công ty, và Nadia al-Bakari, ở tuổi ba mươi ba được xem như là một trong những phụ nữ giàu nhất trên thế giới.

Mối quan hệ của AAB với giới truyền thông trong tay người trợ lý điều hành của Nadia, bà Yvette Dubois, một phụ nữ người Pháp ở tuổi năm mươi nhưng trông còn trẻ. Bà Dubois hiếm khi quan tâm đến những yêu cầu của phóng viên, nhất là những phóng viên làm việc cho các tòa báo Mỹ. Nhưng sau khi nhận được một cú điện thoại từ phóng viên nổi tiếng Zoe Reed, bà quyết định phải trả lời. Bà Dubois để một ngày trôi qua trước khi trả lời, và vì cố tình nên bà Dubois gọi lúc nửa khuya, giờ New York, giờ mà bà tin rằng cô Reed đang ngủ. Vì những lý do mà bà Dubois không hay biết, hóa ra cô Reed vẫn còn thức. Cuộc đối thoại tỏ ra thân thiện nhưng ít hứa hẹn. Bà Dubois giải thích rằng việc được mời nói chuyện đặc biệt trong một tiếng vào giờ phát sóng cao điểm, mặc dù rất đáng được chiếu cố và hãnh diện, nhưng hoàn toàn vượt quá khả năng có thể khả thi. Cô al-Bakari là người luôn đi du lịch và có nhiều vấn đề lớn tồn đọng cần giải quyết. Hơn nữa, rất đơn giản là cô al-Bakari không tham gia những loại phỏng vấn mà cô Reed có ý định thực hiện.

“Ít ra bà có thể chuyển lời yêu cầu đến cô al-Bakari không?”

“Tôi sẽ chuyển,” người đàn bà Pháp nói, “nhưng tôi e rằng ít có hy vọng.”

“Nhưng không phải là hoàn toàn không chứ?” Zoe hỏi một cách thăm dò.

“Chúng ta không nên chơi chữ, cô Reed ạ. Chúng không thuộc tầm cỡ của mình.”

❀ ❀ ❀

Câu nhận xét của bà Dubois gây ra một tràng cười vang rất cần thiết ở lâu đài Treville, một biệt thự kiểu Pháp xây dựng vào thế kỷ mười tám, ở phía bắc Paris, ngay ngoài làng Seraincourt. Được bảo vệ bởi những bức tường cao gần bốn mét khỏi những cặp mắt soi mói, tòa biệt thự có hồ bơi nước nóng, hai sân tennis đất nện, ba mươi hai mẫu vườn được cắt tỉa và mười bốn phòng ngủ được trang trí công phu. Gabriel đã thuê căn biệt thự dưới tên của một công ty công nghệ cao của Đức, vốn chỉ có trong trí tưởng tượng của luật sư cộng tác cho Văn phòng và ngay sau đó ông nhanh chóng gửi hóa đơn cho Shamron ở Đại lộ King Saul. Ở vào trường hợp bình thường thì Shamron đã ngần ngại trước một cái giá cắt cổ như vậy, nhưng thay vào đó, với một chút khoái trá, Shamron chuyển hóa đơn cho Langley, nơi được xem như chịu trách nhiệm về tất cả chi phí của chiến dịch.

Trong những ngày tiếp theo, Gabriel và đội của ông bỏ phần nhiều thời gian vào việc giám sát những thông tin từ chiếc BlackBerry của Zoe. Chiếc điện thoại đang hoạt động như một gián điệp điện tử không mệt mỏi trong túi Zoe. Họ biết chính xác vĩ độ và kinh độ của cô, họ biết chính xác cả tốc độ di chuyển của cô. Họ biết khi cô đang mua cà phê sáng tại Starbucks, khi cô kẹt xe ở New York, và khi nhà sản xuất đang làm cô bực mình, một việc thường xuyên xảy ra. Qua giám sát hoạt động của Zoe qua Internet, họ biết là cô có kế hoạch sửa lại căn hộ ở Upper West Side. Qua đọc e-mail của cô, họ biết cô có nhiều người trồng cây si, trong đó có một tỷ phú kinh doanh trái phiếu, dù cho mất mát nặng cũng tìm thời gian để gửi cho cô hai lá thư một ngày. Họ cảm nhận rằng, mặc dù cô đạt được thành công nhưng cô không hoàn toàn hạnh phúc ở Mỹ. Cô thường thì thầm những lời chúc mã hóa cho họ. Đêm đến, giấc ngủ của cô không yên vì những cơn ác mộng.

Tuy nhiên, với phần còn lại của thế giới, cô cho thấy một sự bất khuất lạnh lùng. Và đối với một số ít người được đặc quyền chứng kiến sự quyến rũ của một nhà báo Pháp, cô chưa cung cấp nhiều chứng cứ rằng cô là một gián điệp tự nhiên nhất mà chưa một ai trong họ đã gặp. Cách thức mà Zoe sử dụng trong những điệp vụ của mình là một cuốn sách giáo khoa phối hợp kỹ thuật âm thanh phù hợp với sự kiên trì không nhượng bộ. Zoe tâng bốc, Zoe phỉnh phờ, và ngay cả cuối của một cuộc tranh cãi qua điện thoại, Zoe cũng cố nhỏ một vài giọt lệ. Ngay cả như vậy, bà Dubois cũng chứng tỏ mình hơn cả một đối thủ đáng giá. Sau một tuần, bà tuyên bố rằng việc thuyết phục Nadia đi đến chỗ bế tắc, nhưng hai ngày sau bà lại thay đổi tình thế khi bất ngờ gửi cho Zoe một bảng câu hỏi chi tiết. Zoe hoàn tất tài liệu bằng tiếng Pháp rất chuẩn và gửi lại vào sáng hôm sau. Bà Dubois lại bặt vô âm tín. Ở lâu đài Treville, Gabriel và đội của ông rơi vào tình trạng thất vọng điển hình khi nhiều ngày quý giá trôi đi mà không có một sự liên lạc nào. Chỉ có Zoe là vẫn lạc quan. Cô đã gạ gẫm nhiều trong quá khứ và biết khi nào thì cá cắn câu. Một buổi tối, lúc đã trễ, khi chiếc điện thoại BlackBerry đang được nạp pin ở bàn đầu giường, Zoe thầm thì với Gabriel, “Tôi đã nắm được bà ta rồi cưng, chỉ còn là vấn đề khi nào bà ta đầu hàng thôi.”

Sự tiên đoán của Zoe hóa ra là đúng, mặc dù người đàn bà Pháp còn để trôi qua thêm hai mươi bốn giờ nữa trước khi tuyên bố lời đầu hàng có điều kiện của mình. Bà ta gửi đến một lời mời miễn cưỡng. Do hủy bỏ bất ngờ một cuộc hẹn nên cô al-Bakari rảnh vào bữa trưa lúc hai giờ. Không biết cô Reed có muốn đến Paris mặc dù được báo trễ không? Với sự khéo léo chuyên nghiệp tột bậc, để chọc tức, Zoe đợi chín mươi phút trước khi gọi điện thoại lại chấp nhận lời mời.

“Tôi muốn làm rõ một vấn đề,” bà Dubois nói. “Đây sẽ không phải một cuộc phỏng vấn, bữa trưa sẽ hoàn toàn không được công bố và ghi chép công khai. Nếu cô al-Bakari cảm thấy thoải mái với cô, cô ta sẽ xem xét bước tiếp theo.”

“Tôi sẽ gặp cô ta ở đâu?”

“Như cô đã biết, cô al-Bakari không thích nói chuyện kinh doanh tại nhà hàng, chúng tôi đã mạn phép đặt chỗ ở dãy phòng Louis XV tại khách sạn Crillon. Cô al-Bakari sẽ tiếp cô lúc một giờ ba mươi, và cô ta sẽ giành quyền thanh toán bữa ăn. Đó là quy luật của cô ấy.”

“Còn có điều gì tôi cần biết về cô ấy nữa không?”

“Cô al-Bakari nhạy cảm về những câu hỏi liên quan đến cái chết của bố cô ta,” bà Dubois nói. “Và tôi sẽ không dừng lại ở đề tài Hồi giáo và quân khủng bố. Cô al-Bakari thấy đó là một vấn đề nhàm chán. À tout à l’heureLát gặp nhé , cô Reed.”