← Quay lại trang sách

Chương 26 MONTMARTRE, PARIS

Ngôi nhà trong căn hộ ở đường Lepic, không xa nghĩa trang nhiều. Tòa nhà bảy tầng, màu xám với lan can bằng sắt rèn và những phòng trên gác xép sát mái. Một cây độc nhất, trụi lá ở ngay giữa sân. Tại phòng chờ sạch sẽ là một cầu thang xoắn bằng gỗ đã cũ làm giảm tiếng động của bước chân khi Gabriel nhanh chóng lên tầng ba. Cửa căn hộ 3A hé mở; một ông già mặc quần kaki ủi kỹ, áo sơ mi oxford trắng và khoác áo bomber bằng da bị rách trên vai trái. Ông ngồi ở mép ghế bành gấm thêu, chân hơi dang ra, bàn tay to nắm lại trên cây can bằng gỗ ô liu, nhìn ông giống như một hành khách nhẫn nại ngồi đợi trong ga tàu hỏa. Giữa hai ngón tay vàng là một mẩu thuốc lá đầu lọc đang cháy. Làn khói có mùi vị hăng lượn trên đầu ông như một đám mây.

“Nhìn anh có vẻ khỏe,” Ari Shamron nói. “Quay lại chiến trường hiển nhiên hợp với anh.”

“Đây không phải kế hoạch mùa đông của tôi.”

“Vậy thì có lẽ anh đừng nên theo tên đánh bom cảm tử ở Covent Garden.”

Shamron mỉm cười buồn bã và bóp mẩu thuốc vào cái gạt tàn để trên bàn cà phê. Sáu mẩu thuốc đã được xếp thành hàng trong gạt tàn, giống như những viên đạn sẵn sàng để nạp cò. Shamron để mẩu thứ bảy vào và chăm chú nhìn Gabriel qua làn khói.

“Thật vui khi nhìn thấy anh, con trai tôi. Tôi đã nghĩ cuộc gặp gỡ của chúng ta ở Cornwall mùa hè vừa qua sẽ là lần cuối.”

“Thật ra, tôi cũng mong là như vậy.”

“Ít nhất anh có thể giả vờ quan tâm đến cảm xúc của tôi không?”

“Không.”

Shamron mồi một điếu thuốc khác bằng cái bật lửa Zippo cũ và cố tình phà khói về phía Gabriel.

“Thật là đầy xúc cảm,” Gabriel nói.

“Đôi lúc tôi không đủ ngôn từ. Rất may là những kẻ thù của tôi lại thừa. Và một lần nữa họ lại thu xếp để đưa anh về với vòng tay của Đại lộ King Saul, nơi mà anh thuộc về.”

“Chỉ là tạm thời thôi.”

“Phải,” Shamron đồng ý một cách vội vàng không thành thật. “Tất nhiên sự sắp xếp này chỉ là tạm thời.”

Gabriel đi về phía cửa hai cánh kiểu Pháp nhìn xuống đường Lepic và mở một cánh ra. Một làn không khí lạnh ùa vào phòng, cùng với âm thanh của giao thông buổi chiều.

“Có nên mở không?” Shamron nói. “Bác sĩ của tôi căn dặn tôi phải tránh không khí lạnh.”

“Bác sĩ của tôi bảo tôi phải tránh ngửi mùi khói. Nhờ ông mà phổi tôi giống như của một người hút bốn mươi điếu thuốc một ngày.”

“Đến một lúc nào đó anh sẽ phải ngừng đổ lỗi cho tôi về những vấn đề anh gặp phải trong cuộc sống của mình.”

“Vì sao?”

“Vì nó phản tác dụng.”

“Đôi khi cũng là sự thật.”

“Tôi luôn thấy tốt nhất là tránh sự thật. Nó luôn luôn dẫn đến những rắc rối không cần thiết.”

Gabriel đóng cửa, ngăn tiếng giao thông lọt vào phòng và hỏi Shamron vì sao ông đến Paris.

“Uzi nghĩ anh cần sự trợ giúp.”

“Tại sao anh ta không cho tôi biết là ông sẽ đến?”

“Có thể anh ấy không nghĩ đến.”

“Anh ấy có biết ông ở đây không?”

“Không.”

Gabriel chỉ có thể cười. “Để tôi nói lại nhé, Ari. Tại sao ông đến Paris?”

“Tôi lo lắng.”

“Về chiến dịch?”

“Về anh,” Shamron nói. “Làm bố là như vậy. Lo lắng cho những đứa con của mình cho đến khi nhắm mắt.”

“Tôi e rằng tôi sẽ không biết một điều gì về cách làm bố.”

Một lúc sau Shamron nói “Thứ lỗi cho tôi, con trai. Tôi phải biết điều đó. Suy cho cùng, đó cũng là lỗi của tôi.”

Ông đẩy mình đứng dậy, đè xuống nặng nề trên cây gậy và đi về phía nhà bếp. Những phần của máy lọc cà phê nằm rải rác trên mặt bàn, cùng với ấm pha trà rỗng và một gói Carte Noire đã mở. Shamron thử mở lò gas và đưa tay đầu hàng. Gabriel thúc khuỷu tay vào Shamron, đẩy ông về phía bàn cà phê nhỏ và cẩn thận đưa gói cà phê lên mũi ngửi. Gói cà phê có mùi bụi bặm.

“Trừ phi tôi nhầm,” Shamron vừa ngồi xuống ghế vừa nói, “đây cũng là cà phê mà ta đã uống lần cuối khi ta đến đây.”

“Có một khu chợ gần đây. Ông nghĩ ông có sống sót chờ tôi trở lại không?”

Shamron xua tay cho biết là cà phê khá ngon rồi. Gabriel đổ đầy nước vào ấm trà và để trên lò cho nước sôi.

“Vẫn còn một điều tôi không hiểu,” Shamron dò xét nhìn Gabriel và hỏi.

“Không rắc rối vậy đâu, Ari. Trước hết ông đổ cà phê vào, sau đó thêm nước và ông ấn cái pít tông nhỏ này xuống.”

“Tôi đang nói về Covent Garden. Tại sao anh đi theo tên khủng bố? Tại sao anh không đơn giản báo cho Graham Seymour và quay về căn nhà nhỏ cạnh bờ biển của mình?”

Gabriel không trả lời.

“Anh cho phép tôi giải thích nhé?”

“Nếu ông muốn.”

“Anh đi theo hắn vì anh biết rất rõ rằng người Anh sẽ không có can đảm hay cách giải quyết để ngăn chặn hắn. Những người bạn châu Âu của chúng ta đang ở giữa một cuộc khủng hoảng hiện sinh toàn diện. Tôi chắc chắn rằng đây là một trong những lý do họ khinh thường chúng ta. Chúng ta có mục đích, chúng ta tin rằng lý tưởng của chúng ta là đúng. Họ không tin vào gì hết ngoại trừ ba mươi lăm giờ làm việc, ngoại trừ việc trái đất của họ sẽ nóng lên, ngoại trừ sáu tuần nghỉ phép hàng năm ở phía nam. Điều lởn vởn trong đầu tôi là tại sao anh lại chọn sống với họ.”

“Bởi vì họ đã tin vào Thượng Đế, và lòng tin đó đã cho họ cảm hứng để vẽ như thiên thần.”

“Phải,” Shamron nói. “Nhưng lòng tin vào Thượng Đế giờ gần như hoàn toàn ở vào thánh chiến. Không may là lòng tin này được sản sinh từ lòng hẹp hòi của Wahhabi và được nuôi dưỡng bằng tiền của Ả Rập. Sau ngày 11/9, người Ả Rập hứa sẽ kết thúc sự kích động đã làm cho Bin Laden và al-Qaeda vùng dậy. Nhưng bây giờ, mười năm sau, tiền của Ả Rập lại một lần nữa rót vào hận thù, mà hầu như không một lời phản đối của Mỹ.”

“Họ cố tự thuyết phục mình rằng người Ả Rập là một đồng minh quan trọng trong cuộc chiến chống khủng bố.”

“Họ ảo tưởng,” Shamron nói. “Nhưng đây hoàn toàn không phải lỗi của họ. Không phải chỉ có dầu lửa chảy vào phương Tây từ Ả Rập Saudi. Còn có một số tình báo béo bở trong đường ống dẫn dầu. GID Ả Rập luôn cung cấp cho CIA và cơ quan tình báo châu Âu những thông tin về những âm mưu tiềm năng và những cá nhân đáng nghi ngờ. Thỉnh thoảng, cũng có những thông tin về hành động tình báo, nhưng phần nhiều hoàn toàn là thông tin tào lao.”

Gabriel nói một cách mỉa mai “ông không đang ám chỉ rằng tình báo Ả Rập đang sử dụng lại chiêu bài nước đôi, vừa đấu tranh với thánh chiến vừa ủng hộ họ?”

“Chính là điều tôi đang ám chỉ đó. Và người Mỹ hiện nay yếu về kinh tế nên không có tư cách làm bất cứ điều gì.”

Ấm nước bắt đầu rít lên. Gabriel đổ nước sôi vào cái lọc và đứng chờ cà phê nhỏ xuống, ông liếc nhìn Shamron. Vẻ nghiêm nghị trên mặt Shamron cho biết rõ ràng là ông đang nghĩ nhiều đến người Mỹ.

“Mỗi cơ quan hành chính của Mỹ đều có từ thông dụng của nó. Cơ quan này thích nói về phương diện vốn chủ sở hữu . Họ luôn miệng nhắc chúng ta về vốn chủ sở hữu họ đã đầu tư vào khắp Trung Đông. Họ có vốn chủ sở hữu ở Iran, chủ sở hữu ở Afghanistan, và vốn chủ sở hữu để duy trì giá ổn định của dầu. Hiện nay chúng ta không dựa nhiều vào bảng cân đối kế toán của Mỹ. Nhưng nếu anh thành công trong việc trung hòa mạng lưới của Rashid thì…”

“Có thể thêm một ít vốn chủ sở hữu cần thiết vào tài khoản của chúng ta.”

Shamron gật đầu có vẻ dứt khoát. “Điều đó không có nghĩa là chúng ta phải xử sự hoàn toàn như một cơ quan lệ thuộc và thuộc sở hữu của CIA. Thật ra, thủ tướng đã kiên quyết để chúng ta sử dụng cơ hội này nhằm giải quyết một vài công việc còn dang dở.”

“Giống như vụ Malik al-Zubair?”

Shamron gật đầu.

“Có điều gì đó mách bảo tôi rằng ông biết Malik có liên quan ngay từ đầu.”

“Cứ xem như tôi nghi ngờ vậy đi.”

“Cho nên khi Adrian Carter yêu cầu tôi đến Washington…”

“Tôi đã dẹp mối nghi ngại thông thường qua một bên và không ngần ngại đồng ý.”

“Ông thật hào phóng,” Gabriel nói. “Vậy tại sao bây giờ ông lại lo lắng?”

“Nadia.”

“Cô ta là ý của ông mà.”

“Có thể tôi đã sai. Có thể cô ta đã lừa chúng ta mấy năm nay. Có thể cô ta giống bố cô ta hơn là chúng ta tưởng.” Ông ngừng lại rồi tiếp, “Có thể chúng ta không nên dùng cô ta nữa và tìm người khác.”

“Không có ai khác đâu.”

“Vậy thì hãy tạo ra người đó đi,” Shamron nói. “Tôi nghe đồn rằng anh rất khéo trong việc đó mà.”

“Không thể được, và ông biết điều đó.”

Gabriel đem cà phê đến bàn và rót ra hai tách, Shamron cho đường vào và nhâm nhi tách cà phê một lúc.

“Ngay cả khi Nadia đồng ý làm việc cho anh,” Shamron nói, “bằng bất cứ giá nào anh cũng không để cô ta dưới quyền của anh. Chúng ta có cách cổ truyền của mình. Kesef, kavod, kussit – tiền, sự tôn trọng, tình dục. Nadia al-Bakari không cần những thứ đó, cho nên cô ta không thể bị kiểm soát.”

“Vậy thì tôi nghĩ chúng ta sẽ phải tin cậy lẫn nhau.”

“ Tin cậy? ” Shamron hỏi lại. “Thứ lỗi cho tôi, Gabriel, tôi không quen nghe chữ này.” Ông uống thêm cà phê và nhăn mặt. “Có một câu tục ngữ xưa mà tôi đặc biệt rất thích. Câu đó nói rằng bức màn che tương lai được dệt bằng Thiên thần Hạnh phúc. Không may là không có bức màn nào có thể che quá khứ của chúng ta. Quá khứ đó được làm bởi những bóng ma. Bóng ma của những người thương yêu. Bóng ma của kẻ thù. Chúng sẽ luôn đi cùng chúng ta. Và hiện giờ chúng đang ở đây.” Cặp mắt ướt át màu xanh của ông tìm kiếm trong bếp một lúc trước khi nhìn Gabriel. “Có lẽ tốt hơn hết là không nên khuấy động quá khứ. Điều đó tốt cho Nadia, tốt cho anh.”

Gabriel nhìn Shamron như dò xét. “Tôi có lầm không Ari, hay ông đang cảm thấy có lỗi khi kéo tôi về lại?”

“Mùa hè vừa qua ở Cornwall, anh đã nói rất rõ ý định của anh. Tôi phải tôn trọng.”

“Trước đây ông chưa bao giờ tôn trọng. Sao bây giờ lại bắt đầu?”

“Bởi vì anh xứng đáng, và điều cuối cùng mà anh cần làm lúc này trong quãng đời của anh là đối mặt với đứa con của người mà anh đã giết không gớm tay.”

“Tôi không định thú nhận tội lỗi của tôi.”

“Có thể anh sẽ không có sự lựa chọn về chuyện này,” Shamron nói. “Nhưng anh hãy hứa với tôi một điều, Gabriel. Nếu anh muốn sử dụng cô ta, hãy chắc chắn là anh sẽ không phạm sai lầm như người Mỹ đã phạm với Rashid. Hãy xem cô ta như một kẻ thù đáng chết và đối xử một cách thích hợp với cô ta.”

“Tại sao ông không tham gia cùng chúng tôi? chúng tôi có nhiều phòng ở căn nhà an toàn.”

“Tôi đã già rồi,” Shamron nói một cách buồn bã. “Tôi chỉ không muốn cản đường.”

“Vậy ông định làm gì?”

“Tôi sẽ ngồi đây một mình và lo lắng. Bây giờ phần số của tôi có lẽ là như vậy.”

“Đừng bắt đầu lo lắng làm gì, Ari. Có thể Nadia sẽ không đến.”

“Cô ta sẽ đến,” Shamron nói.

“Làm sao ông biết chắc chắn vậy?”

“Bởi vì trong thâm tâm, cô ta biết anh là người đã thầm thì bên tai mình. Và cô ta không thể cưỡng lại cơ hội để nhìn mặt anh.”

❀ ❀ ❀

Theo học thuyết nghề nghiệp thì Gabriel phải quay về ngay lâu đài Treville, nhưng sự nóng giận bắt ông phải đi hành hương đến Champs-Élysées. Ông đến đó khi đã quá nửa đêm một chút. Tất cả chứng cứ của cuộc đánh bom đều đã được xóa. Những cửa tiệm và hàng ăn đã được sửa chữa lại. Các tòa nhà đã được thay kính và phủ một lớp sơn mới. Máu trên vỉa hè đã được rửa sạch. Không còn dấu vết của sự phẫn nộ, dấu vết của việc tưởng niệm người chết, dấu vết của lời kêu gọi tỉnh táo trong một thế giới điên đảo. Dĩ nhiên không phải trường hợp của hai viên cảnh sát đứng quan sát ở góc đường, có thể tưởng tượng như không hề xảy ra một vấn đề gì ở đây. Trong một lúc, Gabriel tiếc là đã đến, nhưng khi ông sắp đi thì một e-mail bí mật của đội ở Seraincourt làm ông lên tinh thần. E-mail nói rằng Nadia al-Bakari, con gái của người mà Gabriel giết tại cảng Old Port ở Cannes, vừa mới hủy cuộc hành trình đến Saint Petersburg. Gabriel nhét chiếc BlackBerry vào túi áo khoác và đi bộ dưới ánh đèn. Bức màn che phủ tương lai của ông đã được xé làm đôi. Ông thấy một phụ nữ đẹp tóc đen mướt băng qua sân trước của một lâu đài phía bắc Paris, và một ông già ngồi một mình trong căn hộ ở Montmartre, lo lắng cho chính mình đến chết.