← Quay lại trang sách

Chương 34 ST. JAMES’S, LONDON

Người cộng sự của Gabriel chưa biết về kế hoạch của ông – một điều khá ngạc nhiên vì người đó không ai khác ngoài Julian Isherwood, chủ sở hữu và chủ duy nhất của Viện Mỹ thuật Isherwood, 7-8 Mason’s Yard. Bức tranh Đức Mẹ và Chúa Hài đồng với Mary Magdalene là một trong hàng trăm bức tranh trong phòng tranh Isherwood. Trước đây bức tranh được xem như dòng tranh Venetian của Palma Vecchio, và nay dự kiến là của không ai khác hơn là chính Titian. Hiện giờ bức tranh được cất giữ an toàn trong phòng kho dưới hầm của Isherwood. Hình vẽ trên tranh được che bằng một lớp giấy mỏng. Isherwood đã gần như ghét bức tranh và cả người đã làm hỏng nó. Thật ra trong tâm trí rối loạn của Isherwood, vết cắt lộn xộn trên tấm vải gần như là biểu tượng của những vấn đề trong cuộc sống của Isherwood.

Về phía Isherwood, đây là một mùa thu cần phải quên. Isherwood chỉ bán có một bức tranh – một bức tranh nhỏ của Ý cho một nhà sưu tầm nhỏ ở Houston – và đã bị ho mạn tính như chó sủa, có thể xua người khác ra khỏi phòng nhanh hơn là bị một trái bom đe dọa. Có những lời đồn nói rằng Isherwood vẫn còn đau khổ ở một giai đoạn khủng hoảng nữa của tuổi xế chiều, lần này là lần thứ bảy hay tám, nếu không kể giai đoạn kéo dài của Thời kỳ Xanh mà Isherwood phải chịu đựng khi một cô gái làm việc ở tiệm pha cà phê Costa tại Picadilly, bỏ ông. Jeremy Crabbe, giám đốc hay mặc quần vải tweed của đơn vị phụ trách các tác phẩm của bậc thầy ở Bonhams, nghĩ rằng một bữa tiệc tổ chức đột ngột có thể sẽ làm lên tinh thần cho Isherwood, một ý kiến mà Oliver Dimbleby, một kẻ thù béo phệ của Isherwood từ phố Bury, đã bác bỏ. Oliver xem đó là một ý kiến ngu xuẩn nhất mà ông đã được nghe kể từ nhiều năm nay. Ông ta nói “Dựa vào tình trạng sức khỏe bấp bênh của Julie lúc này, một bữa tiệc đột ngột nhằm gây ngạc nhiên sẽ giết chết ông ta.” Oliver đề nghị nâng tinh thần Isherwood bằng một cô gái gọi rành nghề, đó là cách giải quyết mọi vấn đề của Oliver, dù là vấn đề cá nhân hay vấn đề chuyên môn.

Vào buổi trưa Gabriel quay về London, Isherwood đóng cửa phòng tranh sớm, và vì không có gì tốt hơn nữa để làm, dưới mưa nặng hạt Isherwood đi về hướng phố Duke để uống một tí gì đó ở quán Green’s cùng với Roddy Hutchinson, người được toàn thế giới xem như một kẻ buôn bán vô đạo đức nhất ở St. James’s. Nhanh chóng, Isherwood uống hết một chai rượu trắng Burgundy, và sau đó là một liều rượu mạnh cho sức khỏe của mình. Trước sáu giờ một chút, Isherwood loạng choạng bước ra đường tìm taxi, nhưng khi một chiếc taxi trờ đến, Isherwood bị một cơn ho làm ông buồn nôn đến không thể nhấc tay lên. “Mẹ kiếp,” Isherwood gắt gỏng nói khi chiếc taxi lướt qua, làm bắn nước lên quần mình. “Chết tiệt, mẹ kiếp, đúng là chết tiệt !”

Cơn nóng giận của Isherwood kéo theo một tràng ho khác. Cuối cùng khi cơn ho dịu xuống, Isherwood để ý thấy một bóng người cúi xuống đống gạch của lối đi dẫn đến Mason’s Yard. Người này mặc một áo mưa Barbour, đội mũ kéo xuống lông mày. Chân phải bắt chéo qua chân trái, cặp mắt đảo qua đảo về con đường. Hắn nhìn Isherwood một lúc, cái nhìn pha lẫn sửng sốt và thương hại. Và rồi không một lời hoặc một tiếng động, hắn quay đi và băng qua những viên cuội của sân. Không một phán đoán, Isherwood nối gót hắn, ho khan như một bệnh nhân đi về nhà dưỡng bệnh.

❀ ❀ ❀

“Để tôi nói lại xem tôi có hiểu đúng không nhé,” Isherwood nói. “Trước tiên anh phủ một lớp keo làm bằng da thỏ và giấy mỏng lên bức tranh Titian của tôi. Sau đó anh để bức tranh vào kho của tôi và biến mất đến tận phương nào. Bây giờ anh xuất hiện lại, không báo trước, xem như không có gì xảy ra như thường lệ và nói với tôi anh cần bức Titian này cho một dự án ngoại khóa. Tôi có bỏ sót chi tiết nào chưa nói không?”

“Để dự án này có thể tiến hành, Julian, tôi sẽ cần anh lừa dối thế giới nghệ thuật, và xử sự một cách mà một vài đồng nghiệp sẽ xem là phi đạo đức.”

“Lại một ngày nữa ở văn phòng thôi bạn hiền,” Isherwood nhún vai nói. “Nhưng tôi được gì?”

“Nếu suôn sẻ, sẽ không còn cuộc tấn công nào như cuộc tấn công ở Covent Garden.”

“Và rồi lại một jihadi đến. Và rồi không lại hoàn không, chúng ta lại trở về điểm xuất phát, phải không? Chỉ có Trời mới biết. Tôi không phải là nhà chuyên môn, nhưng dường như trò chơi khủng bố hơi giống như một cuộc mua bán nghệ thuật. Có những lúc lên đỉnh xuống đèo, có những mùa đắt hàng và có những lúc ế ẩm, nhưng không bao giờ kết thúc.”

Trong phòng trưng bày ở tầng trên của phòng tranh Isherwood, ngọn đèn trần tỏa ánh sáng êm dịu như những cây nến tạ ơn. Mưa đập vào cửa sổ trên mái. Mưa nhỏ giọt xuống từ viền áo mà Isherwood chưa cởi. Isherwood nhăn mặt nhìn vũng nước trên sàn và nhìn bức tranh bị hư tổn dựng trên bệ bọc nỉ.

“Anh có biết cái này đáng giá bao nhiêu không?”

“Trong một cuộc đấu giá công bằng, tệ lắm cũng phải là mười triệu. Nhưng trong cuộc đấu giá mà tôi muốn nói tới thì…”

“Anh tệ quá,” Isherwood nói. “Tệ quá, tệ quá.”

“Ông có nói chuyện này với ai không, Julian?”

“Về bức tranh à?” Isherwood lắc đầu. “Không hé môi.”

“Ông có chắc không? Không có giây phút nào thiếu thận trọng ở quán rượu Green’s chứ? Không thì thầm bên gối với cô nàng gặp gỡ một cách phi lý ở Tate chứ?”

“Tên cô ta là Penelope,” Isherwood nói.

“Cô ta có biết về bức tranh không Julian?”

“Dĩ nhiên là không. Không phải là cách diễn tiến khi người ta làm một việc như vậy, bạn hiền. Người ta không khoe khoang những việc như vậy. Người ta giữ kín cho đến thời cơ. Và rồi người ta tuyên bố điều đó cho cả thế giới một cách rầm rộ thông thường. Người ta cũng mong sẽ được đền bù cho sự thông minh của mình. Nhưng theo kịch bản của anh thì tôi sẽ chịu tổn thất – lạy Chúa, dĩ nhiên là tổn thất.”

“Tổn thất của ông chỉ là tạm thời.”

“Tạm thời là sao?”

“CIA sẽ lo mọi chi phí cho chiến dịch.”

“Đây không phải là điều mà người ta nghe mỗi ngày trong một phòng trưng bày tranh.”

“Một cách này hay cách khác, ông sẽ được đền bù Julian.”

“Dĩ nhiên rồi,” Isherwood nói như chế nhạo. “Điều này làm tôi nhớ lần Penelope của tôi bảo tôi rằng chồng cô ta sẽ không về nhà trong vài giờ nữa. Tôi khá già để nhảy qua bức tường rào quanh vườn.”

“Ông vẫn còn gặp cô ta à?”

“Penelope? Cô ta bỏ tôi.” Isherwood lắc đầu nói. “Cuối cùng thì tất cả bọn họ đều bỏ tôi, trừ anh, bạn hiền ạ. Và cả cơn ho chết tiệt này nữa. Tôi bắt đầu xem nó như một người bạn thân cũ.”

“Ông đi khám bác sĩ chưa?”

“Tôi không hẹn được. Bây giờ Dịch vụ Y tế Quốc gia quá tồi. Tôi đang nghĩ đến việc trở thành một nhà khoa học Ki-tô.”

“Tôi nghĩ ông là một người bị chứng rối loạn lo âu bệnh.”

“Thật ra là được mọi người tán thành.” Isherwood với tay chọn miếng giấy mỏng trên phía cao bên phải của bức tranh.

“Mỗi vết tróc sơn mà ông gỡ ra, tôi đều phải gắn lại.”

“Xin lỗi,” Isherwood cho tay vào túi áo khoác và nói. “Có một tiền lệ đó anh biết không. Một vài năm trước, nhà bán đấu giá Christie’s bán một bức tranh cho là trường phái của Titian. Bức tranh được bán với giá không quan trọng là tám chục ngàn đồng bảng Anh. Nhưng bức tranh không phải là trường phái Titian, nó là một bức của Titian. Như anh có thể tưởng tượng ra, những người sở hữu không hài lòng lắm. Họ kết tội Christie’s là làm ăn phi pháp. Luật sư đã can thiệp. Báo chí đăng những tin kinh khủng. Nhiều cảm xúc xoay quanh sự việc.”

“Có lẽ chúng ta phải cho Christie’s cơ hội để chuộc lại lỗi.”

“Họ sẽ thích điều đó. Chỉ có một vấn đề.”

“Chỉ có một thôi sao?”

“Chúng ta đã bỏ lỡ cuộc bán đấu giá của bức tranh của bậc thầy này.”

“Đúng vậy,” Gabriel công nhận, “nhưng ông quên mất cuộc bán đấu giá của những bức tranh thuộc trường phái Venetian, dự kiến vào tuần thứ nhất của tháng Hai sao. Một bức tranh mới tìm thấy của Titian có thể thêm một chút phấn khích.”

“Đúng là một cậu bé xấu xa, thật xấu xa.”

“Phạm tội như bị cáo buộc.”

“Xét về mối liên quan của tôi trong quá khứ với một vài yếu tố nhơ nhuốc của chiến dịch này, có lẽ nên khôn ngoan để một khoảng cách giữa phòng tranh và cuộc đấu giá cuối cùng. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải tuyển một người mua bán khác. Dựa vào hoàn cảnh, người đó phải tham lam, hèn hạ, xảo quyệt, và là một người đểu bậc nhất.”

“Tôi hiểu ông đang nghĩ gì,” Gabriel nói, “nhưng ông có chắc chắn là người đó làm được không?”

“Hắn là người hoàn toàn phù hợp,” Isherwood nói. “Những gì anh cần làm là một bức Titian trông như thật.”

“Tôi nghĩ tôi làm được.”

“Khi nào anh định làm?”

Gabriel nhìn quanh phòng và nói, “Phòng này hoàn toàn phù hợp để làm việc.”

“Anh còn yêu cầu gì nữa không?”

Gabriel đưa cho Isherwood một danh sách. Isherwood đẩy kính đọc sách của mình lên và cau mày. “Một lít methyl proxytol, một lít xăng trắng, một tá cọ Winsor & Newton Seri 7, một cặp đèn halogen đứng, một bản sao bức La Bohème của Giacomo Puccini…” Isherwood nhìn Gabriel qua cặp kính. “Anh có biết tất cả những thứ này sẽ tốn bao nhiêu tiền của tôi không?”

Nhưng Gabriel dường như không nghe thấy, ông đứng trước bức tranh, một tay chống cằm, đầu hơi nghiêng về một bên như đang suy nghĩ.

❀ ❀ ❀

Gabriel tin rằng việc phục chế tranh cũng hơi giống việc ái ân. Sẽ tốt hơn nếu thực hiện chậm rãi và siêng năng chú ý đến chi tiết, với những khoảng thời gian nghỉ ngơi và tịnh dưỡng. Nhưng chỉ trong nháy mắt, nếu nghệ nhân và đối tượng của họ quen biết nhau hoàn toàn thì việc phục chế có thể tiến hành ở một tốc độ đáng kể, với cùng một hiệu quả.

Mười ngày tiếp theo, mà sau này Gabriel không còn nhớ gì nhiều, là mười ngày gần như không ngủ với những nét mờ nhòe của tấm vải lanh, dung môi, sơn dầu, và các chất màu, trong tiếng nhạc của Puccini và dưới ánh sáng trắng bệch và chói lóa của đèn halogen. Nỗi lo sợ ban đầu của Gabriel về tình trạng miếng vải vẽ bức tranh rất may cho thấy đó là lo sợ hão huyền quá mức. Thật vậy khi đã hoàn tất việc lót lại tranh và lấy đi vệt vẹc ni, Gabriel tìm lại được tác phẩm gốc Titian phần lớn còn nguyên trừ một dãy đốm thấy rõ trên người của Nữ đồng trinh Maria và bốn đường trầy nơi mà miếng vải được căng vào khung cũ. Vì Gabriel đã phục chế nhiều tranh của Titian trong quá khứ, nên ông có thể phục chế bức tranh nhanh chóng gần như chính người họa sĩ bậc thầy đã dùng thời gian để vẽ. Bảng màu vẽ của Gabriel là bảng màu vẽ của Titian, cũng như những nét vẽ của ông. Duy chỉ có hoàn cảnh làm việc là khác. Không nghi ngờ gì là Titian đã làm việc với một đội học nghề và người làm thuê có tài trong khi Gabriel không có ai hỗ trợ ngoài Julian Isherwood, điều này có nghĩa là Isherwood không giúp đỡ được gì.

Không đeo đồng hồ nên Gabriel chỉ có một khái niệm mơ hồ về thời gian, và khi ông ngủ, việc này rất hiếm, trên chiếc giường tháo ráp được ở góc phòng, bên dưới ánh sáng chói lọi của bức tranh vẽ phong cảnh của Claude. Gabriel uống cà phê bằng cái xô lấy từ tiệm Costa và tự nuôi sống phần nhiều bằng bánh quy bơ và bánh ngọt dùng để uống trà mà Isherwood đã đem về phòng tranh từ Fortnum & Mason. Gabriel không có thời gian để cạo râu nên ông để râu mọc. Gabriel hốt hoảng vì râu ông bạc hơn lần trước. Isherwood nhận xét là với hàm râu như vậy, Gabriel nhìn giống như chính Titian đang đứng trước bức tranh. Cũng không lạ gì vì nét vẽ tài tình của Gabriel, nên việc giống Titian cũng không xa sự thật mấy.

Vào buổi chiều cuối cùng ở London, như đã hứa, Gabriel đến Thames House, trụ sở chính của MI5 ở bờ sông. Gabriel thông báo cho Graham Seymour rằng trên nguyên tắc, chiến dịch đã đổ bộ vào bờ biển Anh Quốc. Tâm trạng của Seymour rất khó chịu và rõ ràng ông đang suy nghĩ đến một điều gì khác. Con trai của vị vua tương lai đã quyết định thành hôn vào cuối mùa xuân, và Seymour và đồng nghiệp của ông ở Sở Cảnh sát Thành phố phải làm sao cho không có gì phá hỏng lễ thành hôn. Khi nghe Seymour phàn nàn về tình thế, Gabriel không thể giúp gì ngoài việc nghĩ đến lời nói của Sarah trong vườn quán cà phê ở Georgetown. London là mục tiêu dễ đạt được. London có thể bị tấn công bất cứ lúc nào.

Giống như để minh họa về điều này, khi Gabriel rời Thames House thì thấy tuyến xe điện ngầm Jubilee đã bị đóng trước đám đông chen chúc trong giờ cao điểm, vì tìm thấy một gói đồ đáng nghi ngờ. Ông đi bộ về Mason’s Yard, và dưới sự quan sát của Isherwood, ông sơn thêm một lớp vẹc ni lên bức tranh Titian mới được phục chế. Sáng hôm sau, Gabriel chỉ thị cho Nadia đặt cọc hai trăm triệu trong Ngân hàng TransArabian. Sau đó Gabriel đi taxi ra sân bay Heathrow.