Chương 42 NEJD, Ả RẬP SAUDI
Gió giảm bớt vào buổi trưa và khoảng xế chiều thì không khí yên bình lại trở về với Nejd. Không khí yên bình chỉ là tạm thời, giống như phần đông ở cao nguyên khắc nghiệt, vì ở phía xa về hướng tây, mây đen báo hiệu bão đang lùa lên vách của dãy núi Sarawat giống như một bữa tiệc bố ráp của Hejazi. Từ trận mưa đầu tiên cách đây hai tuần, ngọn cỏ đầu tiên và hoa dại đã nhú lên, lấp lánh trên sa mạc. Trong vòng một vài tuần, mảnh đất sẽ xanh như một cánh đồng Berkshire. Sau đó luồng gió nóng sẽ ngự trị và sẽ không có một giọt mưa nào cho đến mùa đông năm tới khi Allah muốn, bão sẽ lại đổ xuống một lần nữa trên những vách núi Sarawat.
Đối với người dân ở Nejd, mưa là một trong số ít điều được hoan nghênh từ phương Tây. Họ dường như đánh giá một cái gì khác, kể cả những người được họ gọi là đồng bào từ Hejaz, với sự khinh thường và khinh miệt. Chính đức tin của họ đã làm họ thù nghịch với thế lực bên ngoài, một đức tin đã được ban cho họ ba thế kỷ trước đây bởi một nhà truyền giáo khắc khổ kêu gọi cải cách. Nhà truyền giáo này là Muhammad Abdul Wahhab. Vào 1744, ông đã thành lập một liên minh với một bộ lạc Nejd có tên là al-Saud, như vậy ông đã tạo ra một liên hiệp về quyền lực chính trị và tôn giáo, tiền đề mà cuối cùng sẽ dẫn đến sự hình thành của Ả Rập Saudi hiện đại. Mối liên minh này tồn tại không dễ dàng và thỉnh thoảng gia tộc al-Saud bắt buộc phải đặt những người đầy nhiệt huyết có râu của Nejd vào đúng vị trí của họ, đôi khi nhờ vào sự trợ giúp của những kẻ ngoại đạo. Năm 1930, gia tộc al-Saud đã dùng đến tiểu liên để thảm sát những chiến sĩ thánh thiện của Ikhwan tại thành phố Sabillah. Và sau 11/9, gia tộc al-Saud đã hợp lực với những người Mỹ đáng ghét để đánh bại trở lại phiên bản ngày nay của Ikhwan được biết dưới tên al-Qaeda. Nhưng hơn hết thảy, kết giao giữa người theo Wahhab và gia tộc al-Saud đã tồn tại được. Họ phụ thuộc vào nhau để sống còn. Trong bối cảnh điều kiện tự thiên không hề khoan nhượng của Nejd thì không thể đòi hỏi gì thêm.
Mặc dù khí hậu khắc nghiệt, mặt đường mới của cao tốc 65 mịn và đen như những con sông dầu thô đang chảy phía bên dưới, về phía tây bắc, đường cao tốc theo con đường của một lối đi đoàn lữ hành trước đây nối liền Riyadh với thành phố ốc đảo Hail, vài dặm phía nam thành phố Hail, gần thành phố Buraydah, Nadia chỉ cho tài xế rẽ vào một con đường hai làn xe nhỏ hơn chạy về hướng tây của sa mạc. Bây giờ thì Rafiq al-Kamal rõ ràng là không thoải mái. Nadia đã không nói gì với hắn về kế hoạch đến Nejd cho đến lúc họ rời khách sạn Four Seasons và ngay cả lời giải thích của cô cũng không rõ ràng. Nadia nói cô sẽ ăn tối trong trại của gia đình tù trưởng Marwan Bin Tayyib, một thành viên quan trọng của đoàn hiền triết. Sau bữa tối, được tách riêng theo giới tính, dĩ nhiên, cô sẽ gặp riêng tù trưởng để thảo luận về những vấn đề liên quan đến zakat. Cô sẽ không cần thiết đem theo người chăm sóc đến buổi họp vì vị giáo sĩ là người tốt, có học thức được biết đến vì lòng mộ đạo của mình. Không có lý do gì phải quan tâm đến sự an toàn của cô. Al-Kamal đã chấp nhận sắc lệnh của Nadia nhưng rõ ràng là hắn không hài lòng.
Bây giờ đã là quá năm giờ một vài phút và ánh sáng đã bắt đầu từ từ lan từ phía chân trời. Chiếc xe đi nhanh qua hàng cây cọ, chanh và cam, chỉ chậm lại một lần để cho một người chăn cừu dẫn cừu băng qua đường. Mỗi dặm đi qua, al-Kamal dần dần bớt căng thẳng. Là người sinh ra ở vùng này, hắn chỉ một vài mốc quan trọng khi đi ngang qua. Và khi đến Unayzah, một thành phố rõ ràng là sùng đạo được biết đến vì sự tinh khiết của đạo Hồi, hắn yêu cầu Nadia đi một đường vòng để hắn có thể thấy ngôi nhà nhỏ mà khi còn bé hắn đã ở đó với một trong số bốn vợ của cha hắn.
Nadia nói, “Tôi chưa bao giờ biết anh đến từ thành phố này.”
Gật đầu, hắn nói, “Tù trưởng Bin Tayyib cũng vậy, tôi biết ông ta khi ông ấy là một cậu bé. Chúng tôi học cùng trường và cầu nguyện ở cùng một nhà thờ Hồi giáo. Khi đó Marwan thực sự đã gây mối hiềm thù. Ông ta đã gặp rắc rối khi ném một cục đá vào cửa kính của một tiệm video. Ông ta nghĩ đó là không Hồi giáo.”
“Còn ông thì sao?”
“Tôi không quan tâm đến tiệm. Không có nhiều thứ để làm ở Unayzah ngoại trừ xem video và đi đền thờ Hồi giáo.”
“Theo tôi biết thì từ đó đến nay tù trưởng đã có tầm nhìn ôn hòa hơn.”
“Những người Hồ giáo của Unayzah không biết nghĩa của từ ‘ôn hòa’,” al-Kamal nói. “Nếu như từ đó Marwan đã thay đổi thì là để chỉ cho sự tiêu dùng chung. Marwan là một người Hồi giáo chính cống và đối với al-Saud thì ông ta không hữu dụng lắm mặc dù họ trả tiền cho ông rất khá. Tôi sẽ canh chừng cho cô.”
“Tôi sẽ nhớ điều này.”
“Có lẽ tôi nên tham dự cuộc họp với cô.”
“Tôi sẽ ổn thôi, Rafiq.”
Al-Kamal giữ im lặng khi họ rời Unayzah và lại đi vào sa mạc. Ngay phía trước họ, qua một biển đá cuội và đá, là vách đá cằn cỗi với những gờ đá mang dấu khắc của gió và cát từ hàng triệu năm. Trại của tù trưởng nằm ở phía bắc của vách đá lộ thiên dọc theo sườn của một thung lũng. Nadia có thể cảm nhận những tảng đá nặng chạm mạnh vào bánh xe khi họ đi dọc theo những đường mòn lồi lõm không trải nhựa.
Nắm chặt lấy thành ghế, al-Kamal hỏi “Tôi mong cô nói cho tôi biết mình đang đi đâu đây? Chúng ta có thể lấy xe Range Rover.”
“Tôi nghĩ đường không đến nỗi tệ hơn vậy nữa đâu.”
“Đây là một trại trong sa mạc. Cô nghĩ chúng ta đến đó bằng cách nào?”
Nadia bật cười một cách vô tình. “Tôi mong rằng bố tôi không đang nhìn con đường này.”
“Thật ra tôi nghĩ là ông ta đang nhìn đó.” Al-Kamal nhìn cô một lúc lâu không nói. “Tôi chưa bao giờ rời bố cô, Nadia, ngay cả khi ông ta bàn luận về những vấn đề rất nhạy cảm trong công việc với những người như tù trưởng Bin Tayyib. Ông ta đã giao phó cuộc đời ông cho tôi. Không may là tôi đã không thể bảo vệ cho ông ta tối hôm ở Cannes, nhưng tôi sẵn sàng đứng hứng đạn cho ông. Và tôi cũng làm như vậy với cô. Cô có hiểu tôi đang nói gì với cô không?”
“Tôi rất hiểu, Rafiq.”
“Tốt,” Kamal nói. “Nếu Thượng Đế muốn thì cuộc họp tối nay sẽ thành công. Nhưng lần sau, hãy cho tôi biết trước để tôi có thể thu xếp thích hợp. Tốt hơn là như vậy. Không có bất ngờ.”
“Điều luật của Zizi à?” Nadia hỏi.
Kamal gật đầu. “Phải, luật của Zizi. Điều luật của Zizi giống như những bài học của Nhà Tiên Tri, cầu xin ông an nghỉ. Tuân thủ triệt để điều luật này và Thượng Đế sẽ ban cho một cuộc sống lâu dài và hạnh phúc. Nếu bỏ qua thì…” hắn nhún vai. “Đó là lúc những điều xấu xảy ra.”
Họ đến một dãy xe đậu lung tung dọc theo thung lũng: Range Rover, Mercedes, Toyota và một vài xe tải nhỏ méo mó. Kế bên khu vực đậu xe là hai cái lều công cộng lớn, bên trong được chiếu sáng. Hàng chục lều nhỏ hơn rải rác trên sa mạc, mỗi lều đều có máy phát điện và ăng ten đĩa vệ tinh. Dưới tấm mạng che mặt, Nadia mỉm cười. Những người Ả Rập thích quay về sa mạc mỗi mùa đông để kết nối lại với di sản của dân Ả Rập du cư, nhưng chỉ là lòng thành tâm của họ với lề lối cũ đã đi quá xa.
“Rõ ràng là tù trưởng tự chăm sóc cho mình rất tốt.”
“Cô phải nhìn thấy biệt thự của ông ta ở Mecca,” al-Kamal nói. “Tất cả đều được chính phủ mua và thanh toán. Khi mà những người al-Saud còn quan tâm thì đó là số tiền tiêu đúng chỗ. Họ chăm sóc các nhà hiền triết và các nhà hiền triết chăm sóc họ.”
“Tại sao lại có điểm này?” Nadia nhìn xung quanh và hỏi.
“Trước đây rất lâu đã có cái như là Ả Rập Saudi, những thành viên bộ lạc của tù trưởng thường đem gia súc của họ đến đây vào mùa đông. Những người trong gia tộc Bin Tayyib đã đến đây dựng lều từ nhiều thế kỷ rồi.”
“Ông sắp nói với tôi là ông đã đến đây khi còn là một cậu bé.”
Al-Kamal nở một nụ cười hiếm có. “Đúng vậy, tôi đã đến đây.”
Al-Kamal ra hiệu cho tài xế đậu xe vào bãi tách xa những xe khác. Sau khi giúp Nadia ra khỏi xe, hắn ngừng lại để nhìn chiếc Toyota Camry. Nhưng qua lớp bụi mỏng, cho thấy chiếc xe chỉ mới đi qua bến tàu ở Dhahran.
“Chiếc xe trong mơ của ông à?” Nadia mỉa mai hỏi.
“Đây là loại xe mà họ đưa cho những người tốt nghiệp chương trình phục hồi phong trào khủng bố. Họ cho những người này một chiếc xe, một căn nhà trả trước và một cô nàng dễ thương để cưới – tất cả những cái bẫy của một cuộc sống bình thường để họ bị cột chặt vào thế giới này hơn là thế giới của thánh chiến. Họ mua lòng trung thành của nhà hiền triết và họ mua lòng trung thành của thánh chiến. Đây là cách của sa mạc. Đây là cách của gia tộc al-Saud.”
Al-Kamal bảo tài xế ở lại trong xe và sau đó dẫn Nadia về phía hai lều công cộng, chỉ trong vài giây, một thanh niên ra chào đón họ. Anh ta mặc một áo choàng dài đến bắp chân theo phong cách Salaf và một mũ chỏm mà không có khăn trùm đầu. Hàm râu dài nhưng thưa thớt và mắt anh ta nhìn có vẻ dịu dàng không bình thường đối với một người Ả Rập. Sau khi chào đón chúc bình an họ theo truyền thống, anh ta tự giới thiệu là Ali và cho biết anh ta là một talib , hoặc môn sinh của tù trưởng Bin Tayyib. Anh ta trạc độ ba mươi.
“Bữa ăn vừa mới bắt đầu. Cận vệ của cô có thể cùng tham gia, nếu anh ta muốn. Phụ nữ ngồi bên kia,” anh ta chỉ về phía bên trái của căn lều và tiếp. “Có nhiều thành viên của gia đình tù trưởng ở đây tối nay. Tôi chắc chắn là cô sẽ được tiếp đón nồng nhiệt.”
Nadia liếc nhanh nhìn al-Kamal trước khi đi về hướng trái căn lều. Hai phụ nữ che mạng xuất hiện và ân cần chào đón cô bằng tiếng Ả Rập Nedj và kéo cô qua lối vào. Bên trong đã có hai mươi phụ nữ giống như họ. Họ ngồi trên thảm dày phương Đông, xung quanh những đĩa to đựng nhiều thịt cừu, gà, cà tím, cơm và bánh mì dẹp. Một vài người đeo mạng che mặt giống Nadia, nhưng phần đông họ đều che toàn bộ thân thể. Trong khuôn khổ khép kín của căn lều, những câu chuyện phiếm của họ nghe giống như tiếng ve sầu. Câu chuyện tạm ngừng một vài giây khi người đàn bà chào đón cô, giới thiệu Nadia với mọi người. Xem ra họ chờ cô đến để bắt đầu ăn. Một phụ nữ thốt lên rất lớn, “Al-hamdu lillah!” – cảm ơn Thượng Đế! Và rồi họ ngồi trước những đĩa thức ăn giống như họ chưa ăn từ nhiều ngày và sẽ không nhìn thấy thức ăn trong một thời gian dài nữa.
Vẫn đứng, Nadia tìm những hình dáng kỳ quái che mặt một lúc trước khi ngồi xuống giữa hai phụ nữ khoảng hai mươi. Một người tên Adara, người kia là Safia. Adara đến từ Buraydah và là cháu gái của tù trưởng. Anh trai cô ta đã sang Iraq để đánh Mỹ và đã biến mất không để lại dấu vết. Hóa ra Safia là vợ của Ali, chàng talib . “Tên tôi được đặt để tưởng nhớ đến người phụ nữ Hồi giáo đã giết tên gián điệp Do Thái vào thời của Nhà Tiên Tri,” cô ta hãnh diện nói trước khi thêm câu bắt buộc “cầu cho ngài được bình an.” Rafiq al-Kamal đã nói đúng về chiếc Toyota Camry; nó đã được tặng cho Ali sau khi anh ta tốt nghiệp chương trình phục hồi phong trào khủng bố. Safia cũng được ban cho Ali cùng với của hồi môn đáng kể. Họ đang chờ đón đứa con đầu tiên bốn tháng nữa. “ Inshallah, sẽ là một bé trai,” Safia nói.
“Đó là ý Trời,” Nadia lặp lại một cách bình thản không đúng với suy nghĩ của cô.
Nadia lấy cho mình một phần thịt gà nhỏ với cơm và nhìn những phụ nữ xung quanh. Một số ít đã tháo bỏ mạng che mặt, nhưng phần đông vẫn che mặt, đang cố ăn, kể cả Adara và Safia. Nadia cũng làm như vậy, trong suốt thời gian ăn, cô lắng nghe tiếng vo vo liên tục của những câu chuyện phiếm quanh cô. Chúng nhàm chán kinh khủng: chuyện gia đình, trung tâm mua sắm mới nhất ở Riyadh, thành tích của con họ. Dĩ nhiên là chỉ con trai, vì con gái là biểu tượng của sự thất bại trong sinh sản. Đó là cuộc sống của họ, cất giữ cẩn thận trong phòng riêng biệt, trong lều riêng biệt, cùng với những phụ nữ giống y như họ. Họ không xem kịch, vì không hề có rạp hát ở trong cả đất nước. Họ không đi vũ trường, vì nhạc và khiêu vũ đều là trái luật. Họ không đọc gì ngoài kinh Koran – họ không học kinh Koran chung với đàn ông – những tạp chí về quần áo mà họ không được phép mặc nơi công cộng, bị kiểm duyệt gắt gao. Thỉnh thoảng, họ được ban cho một thú vui thể xác khác, bí mật bẩn thỉu của Ả Rập Saudi, nhưng phần nhiều là họ có những cuộc sống tủi nhục và buồn chán và khi mọi thứ kết thúc, họ sẽ được chôn cất theo truyền thống Wahhabi, trong phần mộ không bia bên dưới lớp cát nóng bỏng của Nejd.
Mặc cho tất cả những điều này, Nadia cũng không thể không cảm thấy thoải mái trong vòng tay ấm áp của dân tộc cô và trong đức tin của cô. Đó là điều mà những người phương Tây sẽ không bao giờ hiểu được về Hồi giáo: tâm trạng này bao gồm về mọi mặt. Tâm trạng này đánh thức bạn vào buổi sáng bằng lời kêu gọi đọc kinh và bao phủ bạn như một áo choàng theo từng cử động suốt ngày của bạn. Tâm trạng này thể hiện trong từng từ ngữ, từng suy nghĩ và trong mỗi hành động của một người Hồi giáo mộ đạo. Và tâm trạng này đang ở đây, ở giữa sự tụ tập của những phụ nữ mang mạng che mặt, ngay trong lòng của Nejd.
Đó cũng là lúc mà Nadia cảm nhận được sự đau đớn kinh khủng đầu tiên của ý tưởng tội lỗi. Nó xuất hiện rất nhanh và bất ngờ như một cơn bão cát và không một lời cảnh báo nhã nhặn. Bằng cách gia nhập vào cộng đồng của cô với người Israel và người Mỹ, Nadia đã chối bỏ một cách hiệu quả đức tin Hồi giáo của mình. Cô là một kẻ dị giáo, một kẻ bội giáo và sự trừng phạt dành cho kẻ bội giáo là cái chết. Đó là một cái chết mà những phụ nữ che mạng trên mặt, sống buồn chán, tụ tập quanh cô sẽ tha thứ không nghi ngờ gì nữa. Họ không có sự lựa chọn; nếu họ dám đứng lên để bảo vệ cô, thì họ cũng sẽ chịu chung số phận.
Tư tưởng có tội tan nhanh và được thay thế bằng nỗi sợ hãi. Để cho lòng mình sắt đá lại, cô nghĩ đến Rena, người hướng dẫn cô, ngọn hải đăng của cô. Và Nadia nghĩ sẽ thích hợp biết bao nếu sự phản bội của cô xảy ra ở đây, trên mảnh đất thiêng liêng của Nejd, trong vòng tay của những phụ nữ che mạng này. Và nếu cô còn bất cứ nghi ngờ gì về con đường cô đã chọn, thì đã quá muộn. Bởi vì qua khe hở của lều, cô có thể thấy Ali, anh talib để râu, trong chiếc áo choàng Salafi ngắn đang đi đến. Đã đến lúc nói chuyện riêng với tù trưởng. Sau đó, nếu Allah muốn, mưa sẽ đến và công việc sẽ hoàn tất.