Chương 44 ST. JAMES’S, LONDON
Một ngày sau khi Gabriel trở về London, nhà đấu giá Christie’s đáng kính tuyên bố một sự ngạc nhiên thêm vào cho đợt bán đấu giá sắp tới của các bậc thầy Venetian: bức tranh sơn dầu Đức Mẹ và Chúa Hài đồng với Mary Magdalene , 110 x 92 cm, trước đây được xem là của xưởng Palma Vecchio, nay được xem một cách chắc chắn là của không ai khác ngoài chính bậc thầy Titian. Vào trưa, những điện thoại tại nhà Christie’s được nhấc lên liên tục và vào cuối ngày thì không ít hơn bốn mươi bảo tàng và những nhà sưu tầm quan trọng đã bắt đầu rục rịch, chiều hôm đó, không khí quầy rượu ở nhà hàng Green’s như có điện, mặc dù Julian Isherwood không ở đó. Jeremy Crabbe lẩm bẩm trong ly rượu gin và bia đắng. “Tôi trông thấy ông ta trên chiếc taxi ở phố Duke, trông ông ta thật sự kinh khủng, tội nghiệp, khốn khổ. Nghe nói ông ta đã có kế hoạch ở nhà tĩnh lặng với cơn ho của mình.”
Hiếm khi một bức tranh của một họa sĩ như Titian lại xuất hiện và khi việc đó xảy ra thì thường bao giờ cũng có một câu chuyện theo sau. Như vậy chắc chắn là trường hợp của bức Đức Mẹ và Chúa Hài đồng với Mary Magdalene , cho dù câu chuyện là một bi kịch, một hài kịch, hoặc câu chuyện đạo đức, thì cũng phụ thuộc vào ai là người sẽ kể chuyện. Nhà đấu giá Christie’s đưa ra một phiên bản tóm tắt có lợi cho xuất xứ chính thức của bức tranh, nhưng ở ngôi làng nhỏ bé phía tây London ở St. James’s, lại bị xem như một chuyện bịa đặt được đánh bóng lên. Cuối cùng, một phiên bản không chính thức của câu chuyện được ghi lại đại khái như sau.
Có vẻ như ở một thời điểm nào đó vào tháng Tám năm trước, một nhà quý tộc ở Norfolk không rõ danh tính, có chức vị cao nhưng tiền eo hẹp, miễn cưỡng quyết định từ bỏ một phần của bộ sưu tập nghệ thuật. Nhà quý tộc này đã liên lạc với một người buôn tranh, không rõ danh tính ở London và yêu cầu người này chấp nhận sự chuyển nhượng. Lúc đó, người buôn tranh ở London rất bận rộn – sự thật được tiết lộ là lúc đó, ông ta đang tắm nắng ở Costa del Sol – và chỉ xem xét tài sản của nhà quý tộc vào cuối tháng Chín. Nói cho cùng thì nhà buôn tranh nhận thấy bộ sưu tập không gây hứng thú, nhưng vẫn mua lại nhiều bức tranh từ tay nhà quý tộc, kể cả một bức tranh rất bẩn được xem là một bức tranh sao chép của xưởng tranh Palma Vecchio, số tiền trao tay không bao giờ được tiết lộ. Nghe nói là rất ít.
Vì những lý do không rõ ràng, nhà buôn tranh để những bức tranh mòn mỏi trong kho trước khi đem bức tranh Palma Vecchio được nhắc đến ở trên ra lau chùi nhanh. Danh tính của người phục chế tranh không bao giờ được tiết lộ, mặc dù mọi người đều đồng ý ông ta đã để lại danh tiếng cho mình trong một thời gian ngắn, một cách đáng kể. Dĩ nhiên, bức tranh được phục chế tốt đến nỗi được Oliver Dimbleby, nhà mua bán tranh của bậc thầy tại phố Bury, chú ý đến. Oliver sở hữu bức tranh qua một cuộc mua bán – những bức tranh có liên quan khác không bao giờ được tiết lộ. Oliver treo bức tranh ở phòng trưng bày tranh của ông ta và muốn xem tranh thì phải hẹn.
Tuy nhiên bức tranh không ở đó lâu. Trên thực tế, thì chỉ bốn mươi tám tiếng sau, bức tranh được một công ty trách nhiệm hữu hạn có tên Onyx Innovative Capital (OIC), đăng ký ở Lucerne, Thụy Sĩ mua lại. Oliver không giao dịch trực tiếp với OIC, mà với một gã tên là Samir Abbas của Ngân hàng TransArabian. Sau khi tranh luận triệt để về những chi tiết bên tách trà ở khách sạn Dorchester, Abbas đưa cho Oliver một tấm ngân phiếu hai mươi hai ngàn bảng. Oliver nhanh chóng chuyển số tiền vào tài khoản ở ngân hàng Lloyds, như vậy kết thúc việc mua bán và bắt đầu quy trình rắc rối đảm bảo giấy phép cần thiết để xuất khẩu.
Đến giai đoạn này thì việc mua bán gặp tai họa, ít ra là dưới cách nhìn của Oliver. Vì vào một buổi trưa ảm đạm cuối tháng Giêng, xuất hiện ở phòng tranh của Oliver, một nhân vật lôi thôi, dưới nhiều lớp quần áo, chỉ bằng một câu hỏi đột ngột, tấn công bằng võ mồm. Oliver không bao giờ tiết lộ danh tính của người đàn ông, trừ việc cho biết ông ta là người đã được học về Nghệ thuật trong thời kỳ Phục Hưng tại Ý, đặc biệt là trường phái Venetian. Đối với một câu hỏi của người đàn ông, Oliver sẵn sàng lặp lại từng câu một. Thật ra, chỉ cần một ly Sancerre ngon là Oliver có thể diễn lại toàn bộ sự việc. Vì Oliver không thích gì khác hơn là kể chuyện về chính ông ta, nhất là khi ít tâng bốc, gần như luôn luôn là vậy.
“Này, ông tướng, có phải là Titian không?”
“Không phải là Titian, ông bạn ơi.”
“Ông có chắc về điều đó không?”
“Chắc chắn.”
“Vậy thì của ai?”
“Palma.”
“Thật không? Khá tốt nếu là của Palma. Sao chép hay chính Palma?”
“Sao chép, ông bạn. Sao chép thôi.”
Đó là lúc mà người đàn ông cúi xuống phía trước để nhìn gần hơn – Oliver diễn lại cái cúi về phía trước đó mỗi đêm ở quán Green’s dưới những tràng cười của những người xung quanh.
“Bán rồi phải không?” vừa kéo mạnh trái tai, người đàn ông ăn mặc lôi thôi vừa nói.
“Mới bán tuần trước,” Oliver nói.
“Bán như một bức của Palma?”
“Sao chép ông bạn. Sao chép thôi.”
“Bao nhiêu?”
“Trời, ông bạn ơi.”
“Nếu tôi là ông, tôi sẽ tìm cách luồn lách ra khỏi việc mua bán này.”
“Để làm gì?”
“Ông nhìn vào bức tranh đi. Nhìn nét vẽ đi. Ông vừa để một bức của Titian vuột ra khỏi tay. Thật xấu hổ. Ông cúi đầu chịu nhục đi. Thú nhận tội lỗi đi.”
Oliver không làm gì, nhưng chỉ trong ít phút, ông gọi cho người bạn thân cũ ở Bảo tàng Anh, người này biết về Titian hơn tất cả mọi sử gia chuyên về nghệ thuật. Người bạn thân chạy như bay đến St. James’s và đứng trước bức tranh giống như người sống sót duy nhất của một vụ đắm tàu.
“Oliver! Làm sao ông có thể?”
“Có rõ ràng như vậy không?”
“Tôi dám cá danh tiếng của tôi đó.”
“Ít ra ông còn có danh tiếng để cá. Danh tiếng của tôi sẽ cho vào toilet nếu việc này vỡ lở.”
“Anh phải có một lựa chọn chứ.”
“Là gì?”
“Gọi ông Abbas. Nói với ông ta là tờ ngân phiếu không đủ tiền.”
Và đừng nghĩ là ý nghĩ này không thoáng qua đầu óc xảo quyệt của Oliver. Thật ra, Oliver dành phần nhiều thời gian của bốn mươi tám tiếng tiếp theo để tìm ra lỗ hổng hợp pháp và đạo đức có thể chấp nhận được mà ông có thể sử dụng để có thể thoát ra khỏi vụ mua bán. Không tìm ra một lỗ hổng nào – ít ra một cách để cho ông có thể ngủ yên – Oliver gọi cho ông Abbas để báo là công ty Onyx Innovative Capital đã là chủ sở hữu của bức tranh mới tìm ra của Titian. Oliver đề nghị bán bức tranh, hy vọng kiếm chác được một khoản hoa hồng hậu hĩnh, nhưng ngay ngày hôm sau Abbas gọi lại để nói rằng OIC có một hướng giải quyết khác. “Cố làm tôi thất vọng dễ dàng,” Oliver nói một cách buồn rầu. “Rất vui làm việc với ông, ông Dimbleby. Hẹn ông ăn trưa lần sau khi ông ghé Zurich, ông Dimbleby. Và nhân thể, ông Dimbleby, khoảng một tiếng nữa, những nhân viên của nhà Christie’s sẽ ghé qua.”
Họ xuất hiện đột ngột như những kẻ bắt cóc chuyên nghiệp và đem bức tranh về phố King, tại đó một đội chuyên nghiệp về tranh Titian xem xét bức tranh tỉ mỉ. Họ đều đưa ra cùng một phán quyết, và, một cách kỳ diệu, không một ai vi phạm thỏa thuận hà khắc về bảo mật mà nhà Christie’s đã cho họ ký về khoản tiền công của họ. Ngay cả người thường lắm lời như Oliver cũng cố gắng giữ im lặng cho đến sau khi nhà Christie’s tiết lộ giá của bức tranh. Mặt khác, Oliver có lý do để giữ miệng. Oliver là con dê đã để bức tranh Titian vuột khỏi móng của mình.
Nhưng ngay cả Oliver cũng cảm thấy hơi thoải mái vừa lòng trong sự điên cuồng khi nghe lời tuyên bố. Và tại sao không nhỉ? Thật sự là một mùa đông kinh khủng với sự nghiêm khắc của chính phủ, bão tuyết và những vụ đánh bom. Oliver hạnh phúc khi ông có thể làm nhẹ bớt tâm trạng, ngay cả khi điều đó có nghĩa là đóng vai thằng điên vì rượu ở Green’s. Ngoài ra, ông diễn vai trò này rất tốt. Trước đây ông đã diễn nhiều lần và được cổ vũ nhiều.
Vào đêm diễn ra cuộc đấu giá, ông đã diễn giống như là buổi trình diễn cuối cùng trước một đám đông trong căn phòng chỉ có chỗ đứng. Khi kết thúc, được tán dương ba lần khi màn hạ, sau đó ông đi cùng với đám đông về hướng nhà Christie’s cho màn trình diễn lớn. Ban quản lý đã khá tử tế khi dành cho ông một chỗ ở hàng thứ hai, ngay trước bục của người điều khiển đấu giá. Ngồi bên trái Oliver là bạn ông và là người cạnh tranh với ông, Roddy Hutchinson và người ngồi bên trái Hutchinson là Julian Isherwood. Ghế bên phải của Oliver chưa có ai ngồi. Một lúc sau, không ai khác là Nicholas Lovegrove, cố vấn mỹ thuật cho những đại gia, đến ngồi vào đó. Lovegrove vừa mới bay từ New York qua. Dĩ nhiên là mục đích cá nhân. Lovegrove không còn giao dịch thương mại nữa.
“Tại sao mặt dài ra vậy, Ollie?”
“Suy nghĩ về những gì đã xảy ra.”
“Rất tiếc về bức Titian.”
“Thắng một số, thua một số. Công việc làm ăn như thế nào, Nicky?”
“Không có gì đáng than phiền.”
“Tôi không nghĩ ông nhúng tay vào những bức tranh của các bậc thầy.”
“Thật ra, những bức tranh này làm tôi sợ. Hãy nhìn chỗ này đi. Giống như ở trong một nhà thờ đẫm máu – nào những thiên thần, nào các thánh, như cuộc tuẫn đạo và cuộc đóng đinh vào thập giá.”
“Vậy chuyện gì đưa ông đến đây?”
“Một khách muốn mạo hiểm vào một lĩnh vực mới.”
“Khách hàng có tên chứ?”
“Khách hàng muốn giữ sự nặc danh – rất nặc danh.”
“Hiểu rồi. Khách hàng của ông muốn mạo hiểm vào lĩnh vực mới bằng cách mua một bức Titian?”
“Ông sẽ biết sớm thôi, Ollie.”
“Mong rằng khách hàng của ông có nhiều tiền.”
“Tôi chỉ giao dịch với khách hàng nhiều tiền.”
“Nghe đồn rằng sẽ là rất lớn.”
“Quảng cáo trước khi trình diễn.”
“Tôi chắc chắn là ông đúng, ông luôn luôn đúng.”
Lovegrove không màng tranh cãi về vấn đề này. Ông rút chiếc điện thoại từ túi trên ngực của áo khoác và lướt tay tìm số để liên lạc. Oliver vẫn là Oliver, ông lén nhìn vào màn hình sau khi Lovegrove gọi. Bây giờ mới thật là thú vị, ông nghĩ. Hiển nhiên là rất thú vị.