Chương 46 LANGLEY, VIRGINIA
Ba ngày sau buổi đấu giá, nhà đấu giá Christie’s ở phố King, khu St. James’s, gửi số tiền năm mươi triệu bảng – trừ tiền hoa hồng, thuế và nhiều chi phí giao dịch khác – vào chi nhánh ngân hàng TransArabian ở Zurich. Nhà Christie’s nhận được sự xác nhận số tiền được chuyển lúc 2:18 chiều giờ London, cũng như hai trăm người đàn ông và đàn bà tụ tập ở trung tâm điều hành chiến dịch kín được biết dưới tên gọi Rashidistan. Trong phòng vang lên tiếng chúc mừng vang dội khắp nơi trong những phòng của cộng đồng tình báo Mỹ và ngay cả bên trong Nhà Trắng. Tuy nhiên, buổi tiệc ăn mừng không kéo dài lâu, vì còn nhiều việc phải làm. Sau nhiều tuần cực nhọc và lo lắng, chiến dịch của Gabriel cuối cùng đã kết trái. Bây giờ thì mùa gặt sẽ bắt đầu. Và sau mùa gặt, theo ý Trời, sẽ đến bữa tiệc ăn mừng.
Số tiền nằm trong ngân hàng ở Zurich một ngày trước khi được chuyển về trụ sở chính của TransArabian ở Dubai. Nhưng không phải tất cả số tiền. Hai triệu bảng chuyển cho Samir Abbas, người được ủy quyền thông qua một ngân hàng tư nhân nhỏ ở Zurich’s Talstrasse. Thêm vào đó, Abbas quyên số tiền lớn cho một số cộng đồng Hồi giáo và từ thiện – bao gồm cả Quỹ Tiền tệ vì Công lý cho cộng đồng Hồi giáo Toàn cầu, Phong trào Palestine tự do, các Trung tâm Giáo dục cho người Hồi giáo, Xã hội Hồi giáo Tây Âu, Liên minh Hồi giáo Thế giới và Viện Hòa giải Do Thái và Hồi giáo, tổ chức mà cá nhân Gabriel ưa thích. Abbas cũng dành phần mình một số tiền hậu hĩnh cho phí tư vấn mà hắn rút ra bằng tiền mặt. Abbas quyên một phần số tiền cho vị lãnh tụ Hồi giáo của đền thờ Hồi giáo, nơi mà Abbas lui tới. Số còn lại Abbas giấu trong bếp của căn hộ ở Zurich, nơi hắn ở. Việc này được camera giấu trong máy tính của Abbas thu lại và phát trực tiếp lên màn hình lớn ở Rashidistan.
Nhờ vào những liên kết của TransArabian với phong trào thánh chiến toàn cầu, Langley và NSA đã làm quen với sổ cái của TransArabian, cũng như những chuyên gia tài chính cho khủng bố ở Bộ Ngân khố và FBI. Kết quả là Gabriel và nhân viên ở Rashidistan có thể giám sát tiền ở thời gian thực khi tiền chuyển cho các mặt trận, vỏ bọc và những tập đoàn bù nhìn – tất cả đều được tạo ra vội vã với phạm vi quyền hạn lỏng lẻo, trong những ngày sau khi Nadia gặp tù trưởng Bin Tayyib ở Nejd. Tốc độ mà tiền được chuyển từ tài khoản này sang tài khoản khác chứng tỏ rằng mạng lưới của Rashid đã đạt đến mức độ tinh vi so với quy mô và sự non trẻ của nó. Điều này là một báo động cho Langley – một mạng lưới đã phát triển vượt xa Trung Đông và phương Tây.
Chứng cứ về phạm vi toàn cầu của mạng lưới Rashid quá lớn để có thể chống đỡ. Có một khoản tiền ba trăm ngàn đô la xuất hiện đột ngột trong tài khoản của một công ty vận tải đường bộ ở Ciudad del Este, Paraguay. Và năm trăm ngàn đô la trả cho một công ty thương mại và xây dựng ở Caracas. Và tám trăm ngàn đô la đổ vào một công ty tư vấn về Internet ở Montreal – một công ty thuộc về một người Algerie trước đây có liên quan tới al-Qaeda ở vùng Maghreb Hồi giáo, số tiền lớn nhất hai trăm triệu đô la chuyển cho QTC Logistics, một công ty dịch vụ vận chuyển hàng hóa và môi giới hải quan trong vùng qua lại hợp pháp của Tiểu vương quốc Sharjah. Trong thời gian tiền được chuyển cho QTC, đội Rashidistan đã giám sát những đường dây điện thoại của QTC và nghiên cứu kỹ lưỡng những hồ sơ từ ba năm trước. Họ cũng giám sát công ty Internet ở Montreal, tuy nhiên việc theo dõi tên Algerie được giao cho cơ quan An ninh và Tình báo Canada. Gabriel đã phản đối kịch liệt việc đưa người Canada vào cuộc điều tra, nhưng Adrian Carter và người đồng minh mới tìm ra của ông ở Nhà Trắng, James A. McKenna bác bỏ. Đây chỉ là một trong nhiều trận, lớn và nhỏ, mà Gabriel sẽ mất khi chiến dịch càng ngày càng vuột xa tầm tay của ông.
Khi cơ quan tình báo vào trung tâm điều hành, nhân viên cung cấp một mạng lưới ma trận được cập nhật nhiều hơn so với những dữ liệu được Dina và đội của Gabriel tập hợp lại sau những cuộc tấn công đầu tiên. Cứ vài ba ngày McKenna ghé qua chỉ để tỏ vẻ ngạc nhiên về điều đó, cũng như những thành viên của những Ủy ban Quốc hội khác nhau liên quan đến tình báo và Cục An ninh Nội địa. Và vào một buổi trưa đầy tuyết cuối tháng Hai, Gabriel đã nhìn thấy chính tổng thống đứng trên sàn quan sát với giám đốc CIA và Adrian Carter đứng bên cạnh, dáng vẻ rất tự hào. Rõ ràng là tổng thống hài lòng với những gì trông thấy. Sạch và cấp tiến. Một liên kết giữa Hồi giáo và phương Tây để đánh bại lực lượng cực đoan. Sức mạnh của trí óc chống lại bạo lực.
Chiến dịch được Gabriel tạo ra, chiến dịch là tác phẩm nghệ thuật của Gabriel, nhưng cho đến nay vẫn không thành công trong việc cung cấp bất cứ đầu mối nào vững chắc liên quan đến nơi ở của kẻ chủ mưu vận hành mạng lưới hoặc những kẻ cầm đầu khơi nguồn cho mạng lưới. Cho nên Gabriel đã ngạc nhiên khi nghe những tin đồn về việc ngừng lại. Ông đối chất với Adrian Carter ngày hôm sau trong phòng họp cách âm của trung tâm. Carter sắp xếp lại những hồ sơ một lúc rồi cuối cùng mới xác nhận tin đồn là thật. Gabriel gõ vào chiếc thẻ xanh đang đeo trên cổ và hỏi. “Cái này có cho tôi cái quyền được đưa ra một ý kiến không?”
“Tôi e rằng có.”
“Ông sắp phạm sai lầm đó Adrian.”
“Đây không phải sai lầm đầu tiên của tôi.”
“Đội của tôi và tôi đã dành nhiều thời gian và nỗ lực để đưa chiến dịch vào hoạt động. Và bây giờ ông đang thổi tung nó bằng cách giảm bớt nhân viên canh chừng.”
“Tôi sợ rằng anh đã nhầm lẫn tôi với một ai khác rồi,” Carter nói một cách bình thản.
“Ai?”
“Một người nào đó có quyền cai trị theo sắc lệnh chính thức. Tôi là phó giám đốc cho chiến dịch thuộc CIA. Tôi có cấp trên trong tòa nhà này. Tôi có những đối tác tham lam từ những cơ quan khác với những lợi ích cạnh tranh. Tôi có một giám đốc ở cơ quan tình báo Quốc gia, ở những Ủy ban Quốc hội và James A. McKenna. Và cuối cùng, nhưng không phải hết, tôi có một tổng thống.”
“Chúng tôi là gián điệp, Adrian, chúng tôi không bắt giữ. Chúng tôi cứu mạng, ông phải kiên nhẫn, giống như những kẻ thù của ông. Nếu chúng ta tiếp tục để tiền tiếp tục lưu thông, ông sẽ đi trước chúng một bước đã nhiều năm rồi. Ông sẽ canh chừng chúng, ông sẽ nghe được chúng. Ông sẽ để chúng lãng phí thời gian quý báu và nỗ lực để âm mưu, lập kế hoạch những cuộc tấn công mà chúng sẽ không bao giờ xảy ra. Và ông chỉ bắt giữ khi đó là phương cách cuối cùng – và chỉ khi cần thiết để ngăn chặn một vụ nổ bom hoặc một máy bay rớt xuống từ bầu trời.”
“Nhà Trắng không đồng ý,” Carter nói.
“Vậy thì đây là vấn đề chính trị sao?”
“Tôi không nên suy đoán về những động cơ phía sau.”
“Vậy Malik thì sao?”
“Malik là tin đồn. Malik là một linh cảm trong phần của Dina.”
Gabriel nhìn Carter vẻ hoài nghi, “Ông không tin điều đó, Adrian. Suy cho cùng, ông là người nói những vụ đánh bom ở châu Âu được lên kế hoạch bởi một người đã có kinh nghiệm trong vụ ở Baghdad.”
“Và tôi tin điều đó. Nhưng mục đích của chiến dịch này là không bao giờ truy tìm một người, mà là phá hủy một mạng lưới khủng bố. Cảm ơn nhũng gì anh làm, chúng tôi tin là đã đủ chứng cứ để hạ ít nhất sáu mươi kẻ thừa hành trong hàng chục nước. Lần cuối cùng mà ai đó bắt giữ sáu mươi kẻ xấu là bao giờ vậy? Đây là một thành tựu đáng kinh ngạc. Đây là thành tựu của anh .”
“Mong rằng chúng đúng là sáu mươi kẻ thừa hành. Nếu không sẽ không ngăn chặn được đợt tấn công tiếp theo và trên thực tế có thể làm Rashid và Malik đẩy nhanh tiến độ thực hiện kế hoạch của mình.”
Carter bẻ cái kẹp giấy thẳng ra, một lần cuối cho trọn vẹn ở Langley, nhưng không nói gì.
“Ông có xem xét xem điều này có ý nghĩa gì cho sự an toàn của Nadia không?”
“Có khả năng là Rashid thấy thời gian của việc bắt giữ đáng nghi,” Carter thừa nhận. “Đó là lý do chúng tôi cố gắng bảo vệ cô ta bằng một loạt thông tin rò rỉ được đặt đúng chỗ trên báo.”
“Loại thông tin rò rỉ gì?”
“Loại thông tin miêu tả những cuộc bắt giữ như điểm mấu chốt của một cuộc điều tra từ nhiều năm. Việc này đã bắt đầu từ khi Rashid vẫn còn ở Mỹ. Chúng tôi tin rằng thông tin này sẽ gieo bất hòa bên trong cộng đồng của hắn và làm tê liệt mạng lưới.”
“Phải không?”
“Đó là hy vọng của chúng tôi,” Carter nói, giọng không hề mỉa mai.
“Tại sao tôi không hề được hỏi ý kiến về điều này?” Gabriel hỏi.
Carter giơ cao cái kẹp giấy giờ đã hoàn toàn thẳng. “Tôi nghĩ là chúng tôi đang hỏi ý kiến anh đó.”
Cuộc đối thoại giữa Carter và Gabriel là cuộc đối thoại cuối cùng trong nhiều ngày. Carter không rời tầng bảy trong khi Gabriel dành phần nhiều thời gian để sắp xếp việc rút đội ra khỏi phạm vi hoạt động. Vào cuối tháng Hai, Cơ quan Tình báo đã chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc canh chừng sinh mạng lẫn những thông tin trên thiết bị điện tử của Nadia al-Bakari và Samir Abbas, về phần chiến dịch gốc của Gabriel, không tồn tại gì ngoài hai căn nhà an toàn không người – một biệt thự nhỏ ở bắc Paris, một cái khác trên bờ hồ Zurich. Ari Shamron chủ tâm đến lâu đài Treville nhưng ra lệnh đóng cửa căn nhà ở hồ Zurich, chính Chiara xử lý những tài liệu trước khi bay về Washington để gặp Gabriel. Họ chuyển đến ở một văn phòng tầng trệt trên đường Tunlaw, bên kia đường của tòa đại sứ Nga. Carter đặt hai người canh chừng họ, chỉ là để chắc chắn.
Ở với Chiara tại Washington, Gabriel hạn chế thời gian dành cho Rashidistan. Ông đến Langley đúng giờ để dự cuộc họp buổi sáng của nhân viên cao cấp, sau đó dành một vài giờ xem xét kỹ những thông tin của những nhân viên phân tích và những người rà soát dữ liệu trước khi quay về Georgetown để gặp Chiara ăn trưa. Sau đó nếu trời quang đãng, ông và Chiara sẽ đi mua sắm hoặc đi dạo trên những con đường êm đềm, bàn về tương lai của hai người. Đôi khi, giống như họ chỉ đang tiếp nối lại câu chuyện bị gián đoạn bởi vụ đánh bom ở Covent Garden. Chiara cũng nêu lên vấn đề làm việc tại phòng trưng bày tranh của Isherwood. “Hãy nghĩ về điều đó đi,” Chiara nói khi Gabriel phản đối. “Tất cả những gì em muốn nói là vậy đó anh yêu. Anh hãy nghĩ về điều đó đi.”
Hiện giờ, Gabriel chỉ có thể nghĩ đến sự an toàn của Nadia. Với sự chấp thuận của Carter, ông xem lại kế hoạch của Cơ quan Tình báo về việc bảo vệ lâu dài cho Nadia và ngay cả giúp một tay thảo thông tin sẽ bị rò rỉ cho giới báo chí Mỹ. Phần lớn, Gabriel tiến hành một chiến dịch không mệt mỏi từ bên trong Rashidistan để ngăn ngừa việc bắt giữ xảy ra, nói với bất cứ ai sẽ nghe được là cơ quan dưới áp lực chính trị, sắp phạm một sai lầm thảm hại. Carter ngừng tham dự những buổi họp có mặt Gabriel. Không còn dấu vết. Nhà Trắng ra lệnh cho Carter quy ẩn hoàn toàn. Ông thường xuyên liên lạc với bạn và đồng minh ở hàng chục nước, phối hợp để tiến hành một mẻ lưới đặc biệt lớn nhất của chiến sĩ thánh chiến và những gián điệp từ khi Afghanistan bị thua.
Vào sáng thứ Sáu, cuối tháng Ba, Gabriel gặp riêng Carter rất nhanh chỉ đủ để nói rằng ông sắp rời Washington để quay về Anh Quốc. Carter đề nghị Gabriel ở lại lâu hơn. Nếu không ông sẽ bỏ lỡ màn trình diễn lớn.
“Khi nào thì bắt đầu?” Gabriel hỏi một cách buồn bã.
Carter nhìn đồng hồ và mỉm cười.
❀ ❀ ❀Trong vài giờ, những quân cờ domino bắt đầu rơi xuống nhanh và trong phạm vi rộng đến nỗi báo chí theo không kịp diễn tiến câu chuyện được tiết lộ.
Cuộc bắt giữ đầu tiên diễn ra tại Mỹ, khi Đội chiến thuật và vũ khí đặc biệt SWAT của FBI tiến hành cùng một lúc hàng loạt bố ráp ở bốn thành phố. Một nhóm người Ai Cập ở Newark đang lập kế hoạch làm trật đường ray của chuyến tàu New York đi Amtrak. Và một nhóm của những người Somali ở Minneapolis âm mưu tấn công hóa học vào nhiều cao ốc văn phòng ở trung tâm. Và nhóm Pakistan ở Denver đang trong giai đoạn cuối cùng của âm mưu ám sát hàng trăm người với một loạt tấn công vào những cơ sở thể thao đông người. Tuy nhiên, ở mức báo động hơn là Falls Church, Virginia, đội gồm sáu người ở giai đoạn cuối của một kế hoạch tấn công khu tiếp đón khách Trung tâm Du khách Quốc hội Hoa Kỳ mới. Trong máy vi tính của một trong những người bị bắt, FBI đã tìm thấy một số hình ảnh đáng ngờ của du khách và học sinh xếp hàng để đợi cho vào. Một kẻ khác trong bọn chúng vừa thuê một nhà kho riêng biệt để bắt đầu chế tạo bom làm bằng peroxide. Tiền được rót vào từ người Algerie ở Montreal. Người này cũng bị bắt cùng lúc với tám người ở Canada.
Ở châu Âu, mẻ lưới còn lớn hơn. Ở Paris, bọn khủng bố âm mưu tấn công tháp Eiffel và Bảo tàng Orsay, ở London, chúng nhắm vào Vòng quay Thiên niên kỷ và quảng trường Quốc hội. Và ở Berlin, chúng đang chuẩn bị một cuộc tấn công theo kiểu tấn công ở Mumbai, nhắm vào những người thăm viếng khu tưởng niệm người Do Thái gần cổng Brandenburg. Thêm vào những nhóm khủng bố đánh bom Copenhagen và Madrid, nạn nhân của vòng tấn công đầu tiên, đầu hàng. Các nhóm khủng bố ở Stockholm, Malmö, Oslo và Rome cũng đầu hàng, ở phía bên kia lục địa, những tài khoản ngân hàng bị đóng băng và các cơ sở kinh doanh đóng cửa. Tất cả là nhờ vào tiền của Nadia.
Từng người một, các thủ tướng, tổng thống và đại pháp quan xuất hiện trước báo chí để tuyên bố rằng thảm họa đã được ngăn chặn. Tổng thống Hoa Kỳ là người tuyên bố sau cùng. Ông ta quả quyết mô tả mối đe dọa là điều nghiêm trọng nhất kể từ thảm họa 11/9 và gợi ý sẽ còn nhiều vụ bắt giữ khác nữa. Khi được hỏi vì sao những nhóm khủng bố được phát hiện, ông nhường lời cho vị tư vấn chống khủng bố của ông, James McKenna, nhưng McKenna từ chối trả lời. Tuy nhiên ông dồn hết tâm trí để hướng sự chú ý vào bước đột phá trong thực hiện mà không cần những chiến thuật được chính quyền sử dụng trước đây. “Mối đe dọa đã biến chuyển,” McKenna tuyên bố, “và chúng tôi cũng vậy.”
Sáng hôm sau, tờ New York Times và tờ Washington Post đăng những bài viết dài về chiến thắng đã âm ỉ gần như một thập kỷ giờ đang hình thành của nhiều cơ quan tình báo và những cơ quan thực thi pháp luật. Ngoài ra, cả hai tờ báo đều đăng những bài xã luận khen ngợi “tầm nhìn của thế kỷ hai mươi mốt cho cuộc chiến chống lại phe cực đoan toàn cầu” và vào chiều hôm đó, trên sóng các chương trình giao lưu truyền hình, những thành viên của phe đối lập có vẻ chán nản và mất lòng tin. Tổng thống không những đã loại bỏ một mạng lưới khủng bố nguy hiểm mà còn tự bảo đảm cho chính mình thêm một nhiệm kỳ bốn năm nữa. Cuộc chạy đua của 2012 đã kết thúc. Đã đến lúc nghĩ đến cuộc chạy đua của 2016.