Chương 47 PALISADES, WASHINGTON, D.C.
Cùng chiều hôm đó, giám đốc CIA triệu tập nhân viên trong phòng Bubble, hội trường tương lai của Langley, để dự đại hội. Ellis Coyle không tham dự. Ông biết những loại đại hội này dự kiến sẽ giống những tối của ông ở nhà với Norah. Sẽ có câu chuyện vô vị về lòng kiêu hãnh thu phục lại được và một cơ quan đang trong giai đoạn phục hồi, một cơ quan cuối cùng đã tìm ra chỗ đứng của mình trong một thế giới không có Liên bang Xô Viết. Coyle đã được nghe cùng một bài diễn văn từ bảy vị giám đốc trước đây, tất cả đều đã làm cho CIA yếu hơn và rối loạn hơn. Kiệt quệ tài năng, yếu đi vì tổ chức lại cộng đồng tình báo Mỹ, cơ quan tình báo là một thất bại đang ngấm ngầm cháy âm ỉ. Ngay cả Coyle, một người giả dối chuyên nghiệp cũng không thể ngồi trong phòng Bubble và giả vờ như việc bắt giữ sáu mươi kẻ khủng bố báo trước một tương lai sáng sủa hơn – đặc biệt từ khi ông biết sự thật làm thế nào mà bước đột phá đã thu được kết quả.
Có bốn chiếc xe va chạm liên hoàn vào nhau ở đường Canal nên Coyle có thể nghe cho đến phút cuối Atlas Shrugged trên con đường về nhà. Ông về Palisades và thấy căn nhà của Roger Blankman được chiếu sáng bằng đèn của Gatsbyesque và hàng chục xe sang trọng nối đuôi nhau trên con đường chật hẹp. “Hắn lại có một bữa tiệc nữa,” Norah nói khi Coyle hôn bà hờ hững. “Hắn ta là một nhà huy động quỹ gì đó.”
“Anh nghĩ đó là lý do mình không được mời.”
“Đừng nhỏ mọn vậy, Ellis. Không hợp với ông đâu.”
Norah rót hai phân rưỡi rượu vang Merlot vào ly khi Lucy vào bếp, trong miệng ngậm dây xích. Coyle buộc sợi xích cẩn thận vào cổ con chó và họ cùng đi về phía công viên Battery Kemble. Gần chân bảng hướng dẫn bằng gỗ, ở góc chính xác bốn mươi lăm độ từ trái sang phải, có một dấu phấn. Dấu hiệu này có nghĩa là có một món hàng đang chờ Coyle tại điểm giao hàng số 3. Coyle xóa vết phấn bằng gót giày và đi vào rừng.
Bên trong, cây cối um tùm nên tối, nhưng Coyle không cần đèn pin; ông ta biết con đường mòn như một người mù biết những con đường xung quanh nhà anh ta. Từ đại lộ MacArthur, con đường mòn không thay đổi chỉ vài bước trước khi thẳng đứng lên sườn đồi. Trong công viên có một nơi được phát quang trước đây là chỗ để loạt súng nặng cả gần năm mươi kilogram của đội pháo trước kia. Ở phía bên phải là một cây cầu cho người đi bộ bằng gỗ bắc qua một con sông phụ lưu nhỏ. Sườn đồi điểm giao hàng số ba nằm ngay bên kia chiếc cầu phía dưới một thân cây sồi bị gãy. Đối với một người ở tuổi trung niên, đau lưng mạn tính, rất khó leo xuống điểm giao, nhưng đối với Lucy thì không. Lucy biết mỗi điểm giao khi nghe đọc số và có thể dọn dẹp chỉ trong vài giây. Còn gì hơn, trừ phi Cục Tình báo tìm ra cách nói chuyên với chó, Lucy cũng không bao giờ được gọi ra làm nhân chứng. Coyle nghĩ Lucy là một nhân viên điều tra hiện trường hoàn hảo: thông minh, có khả năng, gan dạ và hoàn toàn trung thành.
Coyle ngừng một lúc để lắng nghe tiếng đá banh hoặc giọng nói. Không nghe thấy gì, Coyle ra lệnh cho Lucy dọn dẹp sạch điểm giao số ba. Lucy lao mình vào rừng, bộ lông đen làm nó vô hình và lội xuống dòng suối. Một lúc sau, Lucy leo lên bờ đê, miệng ngậm một cái gậy và ngoan ngoãn ném nó xuống dưới chân Coyle.
Cây gậy dài khoảng 30 cm và đường kính khoảng 5 cm. Coyle nắm hai đầu cây gậy và vặn mạnh. Cây gậy tách ra làm đôi một cách dễ dàng, để lộ ra một ngăn bên trong. Bên trong cái ngăn là một tờ giấy nhỏ. Coyle lấy miếng giấy ra rồi lắp lại cây gậy sau đó đưa nó cho Lucy để đem về điểm giao. Có khả năng là người xử lý của Coyle sẽ lấy cây gậy đi trước bình minh. Người xử lý này không phải là sĩ quan tình báo giỏi nhất mà Coyle đã gặp, nhưng hắn kỹ lưỡng và có thể nói là cần cù và hắn chưa bao giờ bắt Coyle phải đợi tiền thanh toán. Điều này đáng ngạc nhiên. Những sĩ quan tình báo đối diện với nhiều mối đe dọa, trong nội bộ và lẫn cả bên ngoài, nhưng việc thiếu tiền không phải là một mối đe dọa.
Coyle đọc lời nhắn dưới ánh sáng của chiếc điện thoại, sau đó cho miếng giấy vào túi an toàn. Túi này cũng là túi mà Coyle sử dụng năm phút trước để cho phân của Lucy vào. Cái túi được cột chặt, đong đưa như một quả lắc, đánh vào cổ tay Coyle, khi ông leo xuống con đường mòn để về nhà. Coyle nghĩ bây giờ sẽ không lâu nữa. Thêm vài bí mật, thêm vài chuyến đi dạo với Lucy vào công viên. Coyle tự nghĩ ông thực sự có can đảm để rời bỏ không. Và rồi Coyle nghĩ đến cặp kính không thời trang của Norah và căn nhà khổng lồ của người láng giềng và quyển sách về Winston Churchill mà ông đã nghe khi bị kẹt xe trên đường. Coyle đã luôn luôn ngưỡng mộ sự quyết đoán của Churchill. Cuối cùng, Coyle cũng sẽ quyết đoán.
❀ ❀ ❀Bên kia hồ, ở Langley, bữa tiệc vẫn tiếp tục gần như trọn tuần kế tiếp. Họ ăn mừng công việc nặng nhọc của họ. Họ ăn mừng trình độ kỹ thuật cao của họ. Họ ăn mừng cuối cùng họ cũng lừa gạt được kẻ thù. Chính ra là họ ăn mừng Adrian Carter. Họ nói rằng chiến dịch có thể xem chắc chắn là một trong những chiến dịch tinh tế nhất của Carter. Những vết đen đã được xóa, những tội lỗi đã được tha thứ. Không bận tâm đến việc Rashid và Malik vẫn còn ở đâu đó ngoài kia. Vì bây giờ, chúng là những tên khủng bố không có mạng lưới và tất cả là công lao của Carter.
Rashidistan vẫn còn mở cửa để hoạt động, nhưng hàng ngũ đã thưa thớt qua một đợt bổ nhiệm lại vội vàng. Những gì được bắt đầu như một cơ quan tình báo tối mật – tập hợp những nỗ lực nay là một vấn đề lớn cho cảnh sát và những người khởi tố. Đội không còn theo dõi lưu lượng của tiền chuyển vào mạng lưới của khủng bố nữa. Thay vào đó họ tham gia những cuộc tranh luận nóng bỏng với những luật sư của bộ Tư pháp về việc chứng cứ nào có thể chấp nhận được và chứng cứ nào không bao giờ được tiết lộ. Không có một luật sư nào bận tâm đến việc hỏi Gabriel Allon, đứa con huyền thoại nhưng cứng đầu của Cục Tình báo Israel, vì không một luật sư nào biết ông ở đó.
Với hoạt động của chiến dịch đang dần bớt đi, Gabriel dành phần nhiều thời gian và nỗ lực để rời bỏ. Theo yêu cầu của Đại lộ King Saul, ông tiến hành những cuộc họp bàn giao và thương lượng một hệ thống thường xuyên để chia sẻ những kết quả tình báo, biết rõ rằng người Mỹ sẽ không bao giờ đạt đến những điều kiện, sự thỏa thuận được ký rất rầm rộ trước sự tham dự thưa thớt trong văn phòng giám đốc, sau đó Gabriel tiến hành việc trao lại tấm thẻ xanh cho Văn phòng Nhân sự. Những thủ tục đáng lý chỉ có năm phút, đã kéo dài hơn một tiếng vì Gabriel phải ký vô số văn bản hứa hẹn mà ông không hề có ý định tuân theo. Khi sự hám danh tốn giấy mực của phòng Nhân sự đã được làm hài lòng, một cận vệ, mặc đồng phục, đưa Gabriel xuống sảnh, ông ở lại đó vài phút, để nhìn một ngôi sao mới đang được khắc lên Bức tường Tưởng niệm của CIA, sau đó Gabriel bước ra dưới cơn giông rất ngắn đầu mùa xuân.
Khi Gabriel về Georgetown thì cơn mưa đã dứt và mặt trời lại chiếu trên bầu trời trong sáng. Gabriel gặp Chiara để ăn trưa tại một quán cà phê cổ ngoài trời gần đại học Hoa Kỳ, sau đó hai người về đường Tunlaw để thu xếp hành lý bay về nhà. Khi về đến căn hộ ở tòa cao ốc, họ thấy một chiếc Escalade bọc thép đen đang đợi ở cổng, ống pô đang nhả khói. Một bàn tay thò ra đưa dấu, bàn tay của Adrian Carter.
“Có vấn đề gì?” Gabriel hỏi.
“Còn tùy thuộc hoàn toàn vào anh nhìn vấn đề như thế nào đã.”
“Ông nói thẳng vào vấn đề đi. Tôi còn phải ra sân bay.”
“Thật ra là tôi đã mạn phép hủy chuyến bay của anh rồi.”
“Ông thật chu đáo.”
“Vào xe đi.”