PHẦN BA HOANG MẠCEMPTYQUARTER Chương 48 THỊ TRẤN PLAINS, VIRGINIA
Căn nhà được xây trên phần cao nhất của mảnh đất, dưới bóng của bụi cây sồi và cây du nhỏ. Những tấm lợp mái của căn nhà bằng đồng đã hoen ố và cổng rất đẹp cả tầng trên lẫn tầng dưới, căn nhà nhìn xuống một đồng cỏ xanh. Những người láng giềng được cung cấp thông tin rằng người chủ căn nhà là một nhà vận động hành lang giàu có ở Washington tên là Hewitt. Ở Washington, không có một nhà vận động hành lang nào tên Hewitt, hay ít ra không phải là tên của một nông trại xinh đẹp trải dài bốn mươi mẫu của một quý ông tọa lạc trong phạm vi hai dặm phía tây của thị trấn Plains trên quốc lộ 601. Cái tên được chọn ngẫu nhiên qua những máy vi tính của CIA. Nông trại này thuộc sở hữu của CIA và đã được sử dụng như một công ty bình phong. CIA cũng sở hữu một xe máy cày John Deere, xe tải nhỏ hiệu Ford, máy cắt quay hiệu Bush Hog và một cặp ngựa màu đỏ hồng. Một con tên Colby; con kia tên Helms. Đúng theo tính chất của cơ quan tình báo, cũng như nhân viên, mỗi năm chúng phải qua cuộc giảo nghiệm máy phát hiện nói dối để bảo đảm chúng không qua phe bên kia, cho dù là phe nào đi nữa.
Buổi trưa hôm sau, cả hai con ngựa đang ăn cỏ trên đồng cỏ phía dưới khi chiếc Escalade chở Gabriel và Chiara đến, khuấy động con đường trải nhựa. Một nhân viên an ninh CIA đưa họ vào nhà và sau khi giúp họ cởi bỏ áo khoác và lấy điện thoại di động đi, hướng dẫn họ đến căn phòng lớn. Khi họ vào, Uzi Navot đang nhìn hau háu vào cái tủ buffet và Ari Shamron đang cố nhẹ nhàng lấy một tách cà phê từ bình thủy. Graham Seymour trong trang phục thích hợp cho kỳ nghỉ cuối tuần ở miền quê nước Anh đang ngồi gần lò sưởi không được đốt lên. Ngồi gần Graham, Adrian Carter đang cau mày khi nghe James McKenna gấp rút thì thầm điều gì đó vào tai ông.
Những người đàn ông tụ tập trong phòng đại diện một cách nào đó cho tình huynh đệ. Từ những vụ tấn công 11/9, họ đã cùng thực hiện nhiều chiến dịch, phần nhiều những chiến dịch này không được công chúng biết đến. Họ đã chiến đấu cho nhau, đã giết cho nhau và trong vài trường hợp đã đổ máu cho nhau. Mặc dù đôi lúc có bất đồng, sự gắn bó của họ đã vượt qua thời gian và những thay đổi bốc đồng từ những bậc thầy chính trị của họ. Họ nhìn thấy sứ mạng của họ rõ ràng trong mọi điều kiện – dùng một từ của kẻ thù, họ là “hội đồng Shura” của thế giới văn minh. Họ đã gánh vác những công việc khó chịu mà không một ai muốn thực hiện và lo lắng về hậu quả sau này, đặc biệt là khi mạng sống bị đe dọa. James McKenna không phải là thành viên của hội đồng, ông ta cũng sẽ không bao giờ trở thành thành viên. Ông là một động vật chính trị, điều đó theo định nghĩa có nghĩa ông cũng là một phần của vấn đề. Sự hiện diện của ông hứa hẹn là một yếu tố phức tạp, đặc biệt là nếu ông định dành suốt thời gian để thầm thì vào tai Carter.
Rõ ràng là McKenna thoải mái nhất khi ngồi vào bàn chữ nhật, nên theo đề nghị của ông, họ vào phòng khách trang trọng. Hiển nhiên là Carter không ưa ông. McKenna trẻ. Ông ta thích hợp. Dáng vẻ ông ta đẹp sau bục. Ông ta còn vô cùng tự tin, bất kể điều đó có được bảo đảm hoặc được hỗ trợ trên thực tế hay không. Tay McKenna không nhuốm máu và McKenna không có tội lỗi nghề nghiệp trong quá khứ. Ông chưa bao giờ đối chất với kẻ thù trước họng súng hoặc hỏi cung kẻ thù trong phòng tra hỏi. McKenna không hề nói một ngôn ngữ nào của kẻ thù. Tuy nhiên ông đã đọc nhiều quyển sách nói về ông và đã đề cập đến ông một cách rất thận trọng trong nhiều buổi họp. Đóng góp chính của ông cho nền văn học chống khủng bố là một bài ông đã viết cho tạp chí của Bộ Ngoại giao biện luận rằng nước Mỹ có thể thoát ra vững mạnh hơn. Bài viết đã gây sự chú ý của một thượng nghị sĩ có sức thu hút và khi vị thượng nghị sĩ này trở thành tổng thống, ông đã đặt nhiều trách nhiệm đối với sự an toàn của đất nước vào tay một chính trị gia dở ẹc, người đã một lần đến Langley cả một tuần lễ pha cà phê cho giám đốc.
Sau đó đã xảy ra một thoáng khó xử xem ai sẽ ngồi đầu bàn, Carter hay McKenna. Trong những điều luật không viết ra của tình huynh đệ, người chủ tọa các buổi họp được xác định bằng địa lý, nhưng tình huynh đệ lại không có luật về điều phải làm khi đối chất với một kẻ xía vào chuyện chính trị của người khác. Cuối cùng, McKenna nhường chỗ ngồi đầu bàn cho Carter và ngồi cạnh Graham Seymour, người có vẻ đe dọa ông ta ít hơn là nhóm tứ tấu Israel. Carter đặt ống tẩu và túi đựng thuốc lá lên bàn để lát nữa hút và mở nắp máy tính xách tay lên. Một bản sao của tài liệu mật mà NSA thu thập được về một cuộc điện thoại lúc 10:36 sáng theo đồng hồ thế giới, ngày hôm trước giữa chi nhánh Zurich của Ngân hàng TransArabian và văn phòng ở Paris của AAB Holdings. Hai người trong cuộc điện thoại là Samir Abbas, chủ ngân hàng liên hệ mật thiết với những vấn đề từ thiện Hồi giáo và người khách mới, Nadia al-Bakari. Họ nói chuyện bằng tiếng Ả Rập với nhau trong vòng hai phút và mười hai giây. Carter phát bản phiên dịch của NSA. Và ông bật tập tin âm thanh trên máy tính rồi bấm nút ‘phát’.
Giọng nói đầu tiên trong đoạn thu lại là của thư ký điều hành của Nadia. Cô ta nói Abbas giữ máy để cô ta chuyển cuộc gọi. Nadia nhấc điện thoại đúng sáu giây sau. Sau những câu chúc phúc bắt buộc của Hồi giáo, Abbas nói là mới liên lạc với “một người cộng tác của Yemen”. Dường như gần đây công ty của người này đã chịu một chuỗi thất bại và đang rất cần thêm vốn. Người cộng tác này mong muốn gặp chính Nadia và muốn bàn về kế hoạch tương lai, bao gồm nhiều vấn đề tồn đọng ở Mỹ. Người cộng tác này mà Abbas mô tả là “rất thân” với người Yemen, gợi ý nơi gặp là Dubai. Xem ra hắn là một khách thăm viếng thường xuyên của tiểu vương quốc rất giàu sang và còn có một căn hộ khiêm tốn ở khu Jumeirah Beach. Không cần phải nói, người cộng tác rất biết mối quan tâm về an toàn của cô al-Bakari và muốn gặp cô ở một nơi mà cô sẽ cảm thấy vừa an toàn và vừa thoải mái.
“Ở đâu?”
“The Burj Al Arab.”
“Khi nào?”
“Một tuần sau kể từ thứ Năm.”
“Lúc đó tôi ở Istanbul cho công việc kinh doanh.”
“Lịch trình của người cộng tác với tôi rất bận. Đây là cơ hội duy nhất của anh ta để gặp cô bàn về dự tính của tương lai.”
“Khi nào thì anh ta cần câu trả lời?”
“Tôi e rằng anh ta cần câu trả lời ngay bây giờ.”
“Anh ta muốn gặp tôi lúc mấy giờ?”
“Chín giờ tối.”
“Cận vệ của tôi sẽ không chấp nhận sự thay đổi.”
“Người cộng tác của tôi nói sẽ không có sự thay đổi nào.”
“Vậy làm ơn nói với anh ta tôi sẽ đến Burj vào thứ Năm tuần sau, lúc chín giờ tối. Và nói với anh ta đừng đến trễ, vì tôi không bao giờ đầu tư tiền vào những người trễ hẹn.”
“Tôi bảo đảm anh ta sẽ không đến trễ.”
“Có ai đi cùng với anh ta không?”
“Chỉ có tôi – trừ phi, dĩ nhiên, nếu cô thích đi một mình.”
“Thật ra tôi thích có ông đến nữa.”
“Vậy thì tôi rất hân hạnh ở cạnh cô. Tôi sẽ đợi ở sảnh. Cô có số điện thoại di động của tôi.”
“Gặp ông thứ Năm tuần sau, Inshallah.”
“Inshallah, cô al-Bakari.”
Carter bấm nút ‘tạm dừng’.
“Phần thu tiếp theo là một cuộc gọi từ nhà Samir sáu tiếng trước. Samir đang ngủ say và không hài lòng khi điện thoại reo. Tâm trạng của Samir thay đổi khi hắn nghe giọng nói bên kia đầu dây. Quý ông đầu dây bên kia không màng nói danh tính của mình. Ông ta gọi từ Jeddah, Ả Rập Saudi, bằng một điện thoại di động không có tiền sử và có vẻ như không còn hoạt động nữa. Có vài đoạn bỏ lửng và nhiều tạp âm. Đây là một ví dụ.”
Carter bấm nút cho máy chạy.
“Hãy nói với cô ta chúng tôi cần thêm tiền. Nói với cô ta chúng tôi muốn thảo luận về những kế hoạch tương lai. Nói rõ cho cô ta hiểu là chúng tôi sẽ gửi đến một người quan trọng.”
Ngừng.
“Vậy chính xác ai là người cộng tác thân thiết của gã người Yemen muốn gặp Nadia?” Carter hỏi một cách thuyết phục. “Cuộc điện thoại này rõ ràng đã cung cấp câu trả lời. Vì tình trạng không tốt của đoạn thu âm, NSA cần thực hiện một ít việc để tiến hành phân tích giọng nói trùng khớp. Họ sử dụng mỗi dữ liệu mà chúng tôi có, kể cả dữ liệu vô tuyến và những liên lạc bằng điện thoại di động thu thập ở Iraq trong thời gian cao trào của cuộc nổi loạn. Cách đây một tiếng, họ tìm ra một sự trùng khớp. Có ai dám mạo hiểm đoán thử xem danh tính của người mà Samir tiếp chuyện không?”
Gabriel nói “Tôi sẽ nói là Malik al-Zubair, nhưng điều này không thể. Ông thấy đó, Adrian, Malik chỉ là một tin đồn. Malik là một linh cảm của riêng Dina.”
“Không, Malik không phải là một linh cảm,” Carter công nhận. “Dina đã đúng. Malik là thật. Cách đây hai ngày hắn đã ở Jeddah. Và hắn ta có thể hoặc không thể đến khách sạn Burj Al Arab ở Dubai tối thứ Năm tuần sau để nói chuyện với người chủ mới, Nadia al-Bakari. Vấn đề là chúng ta sẽ làm gì?”
Carter gõ chiếc tẩu vào mép của cái gạt tàn. Hội đồng Shura bây giờ đang mở cuộc họp.