Chương 63 HOANG MẠC EMPTY QUARTER, Ả RẬP SAUDI
Trên bản đồ vùng này được gọi một cách gở mồm gở miệng là Rub’al-Khali – theo nghĩa đen là Vùng Trống. Tuy nhiên những người du cư biết vùng này dưới một tên khác. Họ gọi đó là vùng Cát. Bao phủ một phạm vi rộng bằng nước Pháp, Bỉ và Hà Lan, cát trải dài từ Oman và những Tiểu vương quốc, qua Ả Rập Saudi và một phần của Yemen. Những cồn cát to lớn như núi kéo dài trên sa mạc dưới những cơn gió không ngừng thổi. Một vài cồn cát đứng sững một mình. Một số khác nối tiếp với nhau uốn lượn qua hàng trăm dặm. Vào mùa hè, nhiệt độ thường vượt quá một trăm bốn mươi độ F, hạ thấp mát dần xuống một trăm độ về đêm. Gần như không có mưa, một ít cho cây hoặc súc vật và một số ít người không phải là dân du cư, những tên cướp hay khủng bố của al-Qaeda di chuyển tự do qua biên giới. Trên những vùng này thời gian không quan trọng nhiều. Ngay cả bây giờ, thời gian được tính bằng những bước chân đến cái giếng tiếp theo.
Giống như phần đông những người Ả Rập, Nadia al-Bakari chưa bao giờ đặt chân đến vùng Empty Quarter. Mặc dù cô không biết là điều này sẽ thay đổi ba tiếng sau khi cô bị bắt cóc. Khi bị mê vì một liều thuốc mê ketamine, Nadia đã tin là cô đang lang thang trong những căn phòng mạ vàng của thời thơ ấu. Bố cô xuất hiện rất nhanh; ông mặc áo choàng dài cổ truyền của dân du cư với bộ mặt dữ tợn được gọi là juhayman , người bị đạn xuyên qua. Ông cho cô chạm vào những vết thương, rồi khiển trách cô đã thông đồng với những người đã gây ra. Cô phải bị trừng phạt, ông nói, cũng như Rena đã bị trừng phạt vì đã đem sự ô nhục về cho gia đình. Đây là ý Thượng Đế. Không có gì làm thay đổi được.
Đúng vào lúc bố cô lên án cô phải chết thì Nadia cảm thấy mình bắt đầu lơ lửng trồi lên khỏi tình trạng hôn mê, trồi dậy từ từ, giống như một tài xế đi lên từ vực sâu. Khi cô đã hoàn toàn tỉnh, Nadia cố gắng mở mắt và thở mạnh ra. Và cô bắt đầu nhìn xung quanh. Cô đang nằm trên một tấm thảm hôi mùi đàn ông và lạc đà. Hai cổ tay bị trói, Nadia đang trùm một áo choàng mỏng bằng cotton trắng. Tấm áo choàng sáng lên dưới ánh trăng, cũng giống như áo choàng theo phong cách Salafi của người đàn ông đang nhìn xuống cô. Hắn đội mũ chỏm không có khăn trùm đầu và cầm một khẩu tự động với băng đạn cong. Ngay cả như vậy, cặp mắt của hắn có vẻ dịu dàng một cách bất thường đối với một người Ả Rập. Và rồi, Nadia nhận ra là cô đã trông thấy hắn trước đây rồi. Cặp mắt này là của Ali, talib của tù trưởng Marwan Bin Tayyib.
“Tôi đang ở đâu đây?” Nadia hỏi.
Hắn trả lời một cách thành thật. Đây không phải là dấu hiệu tốt.
“Safia khỏe không?”
“Cô ta khỏe,” mặc dù trong tình trạng này gã talib cũng mỉm cười và nói.
“Còn bao nhiêu lâu nữa thì đứa bé ra đời?”
“Ba tháng,” gã trả lời.
“ Inshallah , sẽ là một đứa bé trai.”
“Thật ra là bác sĩ bảo chúng tôi sẽ có một bé gái.”
“Anh không có vẻ không vừa lòng.”
“Phải.”
“Anh đã chọn tên cho em bé chưa?”
“Chúng tôi sẽ gọi nó là Hanan.”
Trong tiếng Ả Rập có nghĩa là “thương xót”. Có lẽ cuối cùng cũng có hy vọng.
Gã talib bắt đầu đọc kinh Koran cho chính mình. Nadia nằm ngửa và nhìn lên những vì sao. Dường như khoảng cách giữa Nadia và những vì sao gần như có thể chạm được. Chỉ có âm thanh của tiếng đọc kinh Koran và tiếng vo vo vọng từ xa đến. Trong một lúc, cô nghĩ đây là một ảo giác nữa do thuốc – hoặc có thể, cô nghĩ vì trí óc cô bị xáo trộn. Nadia nhắm mắt lại, im lặng nghe giọng của talib , chăm chú lắng nghe. Cuối cùng, Nadia nhận ra rằng không phải là ảo giác. Đó là tiếng một loại máy bay nào đó. Và tiếng máy bay đang đến gần.
❀ ❀ ❀Một con đường chật hẹp nối liền thành phố ốc đảo Liwa của tiểu vương quốc Ả Rập với giàn khoan dầu Shaybah ở phía bên kia của đường ranh Ả Rập Saudi. Nadia đã qua những trạm kiểm soát trong vai người vợ che mạng đang thiếp đi của một trong những kẻ bắt cô. Gabriel cũng đã trải qua cùng một sự sỉ nhục, mặc dù, không giống Nadia, ông hoàn toàn biết chuyện gì đang xảy ra.
Dưới mạng che, Gabriel mặc một bộ áo liền quần màu xanh của nông dân Dubai, mà họ đã đưa cho ông sau khi đã xé quần áo ông ra, tìm tòi máy theo dõi và thiết bị nghe lén trong một nhà kho ở al-Khaznah, một thành phố sa mạc trong tiểu vương quốc của Abu Dhabi. Gabriel cũng đã bị đánh đập lần thứ hai, Rafiq al-Kamal là người thực hiện sự đánh đập này nhiều nhất. Gabriel nghĩ rằng gã Ả Rập này có lý do để cáu với ông. Dù sao đi nữa thì Gabriel cũng đã giết ông chủ cũ của hắn và rồi lại tuyển dụng cô con gái vào làm nhân viên tình báo. Gabriel ngạc nhiên khi al-Kamal liên quan đến việc bắt cóc Nadia. Gabriel tự hỏi ai là người chỉ huy, những người Ả Rập ở đây? Bọn khủng bố? Hay gia tộc al-Saud?
Hiện giờ thì điều này không quan trọng, vấn đề là làm sao giữ cho Nadia sống sót. Muốn vậy thì phải cần nói láo thêm lần cuối cùng, sự lừa đảo cuối cùng. Gabriel tưởng tượng ra sự lừa đảo trên đường đến Shaybah khi ông mặc bộ áo liền quần màu xanh của nông dân và đeo mạng che mặt của đàn bà. Và rồi ông tự nói với mình hết lần này đến lần khác cho đến khi ông tin từng lời một là sự thật.
❀ ❀ ❀Trên màn hình plasma khổng lồ của Langley, Gabriel chỉ là một dấu vết mờ mờ của một ánh sáng nhấp nháy màu xanh đi qua vùng Empty Quarter. Năm ánh sáng khác cũng nhấp nháy gần thành phố ốc đảo Liwa. Đó là vị trí của Mikhail Abramov và đội Sayeret Matkal.
“Họ không có cách nào qua trạm kiểm soát ở làn ranh,” Carter nói.
“Vậy thì họ sẽ đi xung quanh đó.” Shamron nói.
“Có một hàng rào dọc theo ranh giới.”
“Đối với đội Sayeret, hàng rào không có nghĩa lý gì hết.”
“Làm sao họ có thể qua bằng một chiếc Land Cruiser?”
“Họ có hai chiếc Land Cruiser,” Shamron nói, “nhưng tôi nghĩ sẽ không có cái nào qua hàng rào đó.”
“Ông đang nói gì vậy?”
“Chúng tôi đợi cho đến khi Gabriel ngừng di chuyển.”
“Và rồi sao?”
“Họ sẽ đi bộ.”
“Trong hoang mạc Empty Quarter sao?” Carter hỏi có vẻ ngờ vực.
“Họ được huấn luyện để làm điều đó.”
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ chạm trán với đội quân sự tuần tra Ả Rập?”
“Vậy thì tôi nghĩ rằng chúng ta phải đọc kinh dành cho người chết Kaddish với đội tuần tra,” Shamron nói. “Bởi vì nếu họ chạm trán với Mikhail Abramov và Yoav Savir thì họ sẽ không còn tồn tại.”
❀ ❀ ❀Có một trạm xăng và một khu chợ bán suốt đêm ở Liwa cho những người nông dân và tài xế xe tải ngoại quốc. Người Ấn Độ ngồi sau quầy giống như đã không ngủ cả tháng rồi. Yoav, người Ả Rập, nhưng không phải là Ả Rập mua khá đủ lương thực và nước cho nhóm quân đội nhỏ, cùng với một ít khăn choàng đầu rẻ tiền và một vài bộ quần áo bằng cotton rộng mà người Pakistan và Bangladesh ưa thích. Yoav nói với tên Ấn Độ là ông và những người bạn định dành một hay hai ngày trên cồn cát để hòa nhập với Thượng Đế và thiên nhiên. Người quản lý điều hành nói về một tổ chức đặc biệt gây nhiều ảnh hưởng ở phía bắc Liwa, dọc theo ranh giới Ả Rập. “Nhưng hãy cẩn thận,” ông ta nói. “Vùng này đầy dân buôn lậu và al-Qaeda. Rất nguy hiểm.” Yoav cảm ơn người Ấn Độ về lời khuyến cáo. Ông thanh toán mà không trả giá, ra ngoài và đi về phía những chiếc Land Cruiser.
Họ bắt đầu tiến về phía bắc như người Ấn Độ đã gợi ý, nhưng khi ra khỏi thành phố, họ đột ngột quay về phía nam. Những cồn cát có màu hồng và cao như những ngọn đồi vùng Judean Hills. Họ lái xe khoảng một giờ, luôn luôn đi trên những đường mòn cát cứng, trước khi ngừng gần hàng rào của ranh giới Ả Rập. Rạng đông sắp ló dạng, họ che phủ những chiếc Land Cruiser dưới lưới ngụy trang và mặc những bộ quần áo họ đã mua ở Liwa. Yoav và những người khác trong đội Sayeret trông giống người Ả Rập, nhưng Mikhail trông giống một nhà thám hiểm phương Tây đến tìm kiếm một thành phố bị mất tích của Ả Rập. Ba mươi phút sau, cuộc thám hiểm của Mikhail bắt đầu khi đèn xanh mờ mờ của Gabriel Allon cuối cùng ngừng di chuyển ở cách đội bốn mươi dặm. Họ cho vũ khí và nước càng nhiều càng tốt trong khả năng họ có thể đem theo vào túi xách. Sau đó họ leo qua hàng rào ranh giới của Ả Rập và bắt đầu đi.