← Quay lại trang sách

PHẦN BỐN THỨC TỈNH Chương 67 PARIS – LANGLEY – RIYADH

Hơn hai mươi bốn giờ sau, cuối cùng AAB Holdings tiết lộ cho thế giới vị chủ tịch và giám đốc điều hành, Nadia al-Bakari mất tích và được xem như bị bắt cóc. Theo nguồn tin của công ty thì cô đang di chuyển bằng chiếc limousine trên đường từ khách sạn nổi tiếng Burj Al Arab ra sân bay thì bị mất tích. Hai cuộc điện thoại được gọi từ trong xe, cả hai đều từ điện thoại của người cận vệ lâu năm của cô. Trong cuộc gọi thứ nhất, người cận vệ đã chỉ thị cho trưởng phòng Du lịch của AAB là đưa giờ cất cánh của máy bay công ty sớm hơn mười lăm phút, từ 11:00 tối lên 10:45 tối. Bảy phút sau, viên cận vệ lại gọi để báo là cô al-Bakari không khỏe và sẽ quay về khách sạn nghỉ đêm tại đó. Viên cận vệ nói ý cô al-Bakari là những người nhân viên còn lại sẽ quay về Paris theo như dự tính. Không cần phải nói, chính quyền Tiểu vương quốc xem cuộc gọi thứ hai rất đáng nghi, mặc dù họ chưa xác định được viên cận vệ có phải là một phần của âm mưu hoặc chỉ là một nạn nhân khác không. Viên cận vệ cũng mất tích như tài xế của chiếc xe.

Như dự đoán, tin này gây chấn động cho thị trường tài chính toàn cầu vốn đã trong tình trạng lo sợ. Giá cổ phiếu sụp đổ ở châu Âu, nơi mà bề thế của AAB rất lớn, và thị trường Phố Wall giảm mạnh. Nhưng bị ảnh hưởng nặng nhất là Dubai, Inc. Sau khi đã tiêu hàng tỷ để tự miêu tả là một ốc đảo ổn định trong một vùng nhiễu nhương, tiểu vương quốc giờ như một nơi mà ngay cả những tỷ phú được bảo vệ chặt chẽ nhất cũng không được an toàn. Người Thống trị lên sóng để tuyên bố là thành phố tự trị của mình an toàn và mở cửa để kinh doanh, nhưng những nhà đầu tư thì không mấy tin vào điều đó. Họ liên hồi tấn công những công ty có cơ sở tại Dubai và quỹ đầu tư quốc gia bằng những làn sóng bán tháo tàn nhẫn làm cho thành phố của vàng một lần nữa bấp bênh trên bờ phá sản.

Thêm hai mươi bốn giờ nữa trôi đi mà không có một lời nào về định mệnh của Nadia, giới báo chí không có sự lựa chọn nào ngoài việc khai thác nhiều vào những gì đã xảy ra. Một giả thuyết đưa ra là cô bị ám sát bởi một băng sát thủ người Nga đã mất hàng triệu khi đầu tư vào AAB Holdings. Một giả thuyết khác cho rằng cô đã làm mất lòng những nhóm lợi ích đầy quyền lực ở Dubai khi cô kêu gọi đối xử tốt với những lao động nhập cư vào tiểu vương quốc. Cũng có giả thuyết cho rằng việc bắt cóc chỉ là một trò lừa dối, và đơn giản là Nadia al-Bakari, một trong những người phụ nữ giàu nhất, đi trốn vì những lý do mà không ai biết.

Đáng tiếc là giả thuyết cuối cùng gây được nhiều chú ý trong một bộ phận giới truyền thông, và chẳng bao lâu là giả thuyết nhìn thấy Nadia xuất hiện đột ngột ở những nơi hấp dẫn xung quanh thế giới. Giả thuyết cuối cùng là cô đang sống ở một hòn đảo rất xa trên biển Baltic với con trai một người Thụy Điển giàu có.

Giả thuyết này xuất hiện cùng ngày với lời tuyên bố của vương quốc Ả Rập về việc tìm được xác Nadia ở vùng hoang mạc Empty Quarter. Theo họ, thi thể của nhiều người đàn ông cũng được tìm thấy cùng với thi thể của Nadia, kể cả thi thể của nhân viên cận vệ của cô. Tất cả đều bị giết bằng súng, cô Bakari cũng vậy. Cho đến bây giờ, chính quyền Ả Rập chưa có kẻ tình nghi nào cả.

Bằng cách bảo lưu những lời phát biểu ý kiến trước đây của chế độ Ả Rập, lời tuyên bố chỉ tiết lộ một phần của câu chuyện, ví dụ như không đề cập đến việc cơ quan tình báo Ả Rập đã biết chính xác những tình huống của vụ ám sát cô al-Bakari. Và cũng không tiết lộ rằng một đội tuần tra quân đội Ả Rập đã tìm được thi thể của cô trong vài giờ sau khi cô chết, cùng với kẻ duy nhất sống sót trong vụ ám sát. Bị thương rất nặng, kẻ sống sót này giờ là một nhân vật của những cuộc thương lượng ngoài hành lang nếu không nói là mãnh liệt thì cũng là bí mật, giữa CIA và thành phần có thiện cảm của gia tộc Saud. Cho đến giờ, sự thương thuyết chưa đem lại kết quả gì. Thật ra, khi chính quyền Ả Rập còn dính líu đến thì người đàn ông đang được nói đến không tồn tại. Họ hứa sẽ tìm kiếm ông ta, nhưng không có hy vọng nhiều. Họ cho biết là vùng Empty Quarter không nhân nhượng với những kẻ đột nhập. Inshallah, họ sẽ tìm xác ông ta, trừ phi dân du cư không tìm ra ông ta trước họ.

❀ ❀ ❀

Máy theo dõi cực nhỏ giấu trong cơ thể Gabriel lại cho biết một câu chuyện hoàn toàn khác. Máy theo dõi cho biết là người đàn ông tìm thấy ở vùng Empty Quarter đã được đưa bằng trực thăng đến Riyadh, và chở đến khoảnh đất do Mabahith, cơ quan mật vụ của Bộ Nội vụ, quản lý. Một tuần sau, ông được đưa đi qua Riyadh để đến sa mạc phía tây thành phố. Trong nhiều giờ lo lắng, nhân viên của Rashidistan sợ điều tệ nhất xảy ra, rằng Gabriel sẽ bị hành hình và chôn theo phong tục của Wahhabi, trong một ngôi mộ không bia. Cuối cùng, những người phân tích của cơ quan tình báo có thể rõ ràng giảm bớt căng thẳng để xác định vị trí mới của Gabriel là ở nhà máy nước thải chính của Riyadh. Điều này có nghĩa là cuối cùng, Gabriel đã đẩy máy theo dõi khỏi đường tiêu hóa. Điều này cũng có nghĩa là bây giờ ông không còn trong phạm vi theo dõi nữa và hoàn toàn ra khỏi phần kiểm soát của Langley.

❀ ❀ ❀

Viên đạn đã làm gãy hai xương sườn và gây tổn thương cho phổi Gabriel. Người Ả Rập đợi đến khi ông bình phục vừa đủ để có thể thẩm vấn ông. Cuộc thẩm vấn do một người đàn ông cao, mặt có góc cạnh như chim ưng thực hiện. Bộ đồng phục màu xanh ô liu ủi cứng ngắc, nhưng không nhiều huy hiệu. Hắn tự xưng là Khalid, học ở trường bên Anh và có phong cách nói chuyện như người đọc bản tin của BBC.

Hắn bắt đầu bằng việc hỏi tên Gabriel, giải thích nhanh vì sao Gabriel lại ở vùng Empty Quarter và lại ôm lấy thi thể của một phụ nữ Ả Rập. Gabriel nói tên ông là Roland Devereaux đến từ Quebec, ông nói mình bị quân Hồi giáo cực đoan bắt trong khi ông đang đến Dubai bàn công việc kinh doanh, ông bị đánh đến bất tỉnh và đưa đến sa mạc để giết. Có một cuộc tranh cãi giữa những tên khủng bố dẫn đến nổ súng, ông không biết nội dung của cuộc tranh cãi vì ông không biết tiếng Ả Rập.

“Không biết chữ nào hết sao?”

“Tôi có thể gọi cà phê.”

“Ông muốn cà phê như thế nào?”

“Hơi ngọt.”

“Tính chất công việc kinh doanh của ông tại Dubai là gì?”

“Tôi làm cho một công ty vận chuyển hàng hóa.”

“Còn người đàn bà chết trên tay ông?”

“Tôi chưa bao giờ thấy cô ta trước đây.”

“Ông có bao giờ biết tên cô ta không?”

Gabriel lắc đầu, và hỏi đại sứ quán của ông có biết ông ở đây không.

“Đại sứ quán nào?” gã Ả Rập hỏi.

“Dĩ nhiên là đại sứ quán Canada.”

“Ồ phải rồi,” Khalid mỉm cười nói. “Tôi đang nghĩ gì vậy không biết?”

“Anh đã liên lạc với họ chưa?”

“Chúng tôi đang tiến hành.”

Tên sĩ quan ghi nhanh vào cuốn sổ rồi bỏ đi. Gabriel bị còng tay và quay về xà lim. Sau đó không ai nói với ông trong nhiều ngày.

❀ ❀ ❀

Khi Gabriel được quay lại phòng tra hỏi, ông thấy một chồng hồ sơ xếp trên bàn. Khalid, tên chim ưng, đang hút thuốc, một điều mà hắn đã kìm hãm từ cuộc gặp đầu tiên với Gabriel. Lần này, hắn không hỏi, thay vào đó hắn bắt đầu độc thoại không phải giống như cuộc độc thoại mà Gabriel đã phải chịu đựng dưới chân Rashid al-Husseini. Tuy nhiên, trong trường hợp này, đề tài không phải là sự chiến thắng không tránh được của Hồi giáo Salafi mà là sự nghiệp lâu dài và gây tranh cãi của một sĩ quan tình báo Israel có tên gọi là Gabriel Allon. Thông tin của Khalid rất chính xác. Đặc biệt, xoáy vào vai trò của Gabriel trong việc ám sát Abdul Aziz al-Bakari và việc sử dụng con gái của Zizi như một phương tiện để thâm nhập vào mạng lưới khủng bố của Rashid al-Husseini và Malik al-Zubair.

“Nadia là người chết trên tay ông ở Empty Quarter,” gã Ả Rập nói. “Malik đã ở đó. Chúng tôi muốn ông nói cho chúng tôi biết chuyện xảy ra thế nào.”

“Tôi e rằng tôi không hiểu anh đang nói gì.”

“Lời thú tội của ông qua video tràn ngập Internet và truyền hình, Allon. Nếu ông không hợp tác với chúng tôi, chúng tôi sẽ không còn lựa chọn nào khác là đưa ông ra tòa và công khai xét xử ông.”

“Anh thật chu đáo quá.”

“Tôi e rằng bánh xe công lý của người Ả Rập không nghiền nát từ từ.”

“Nếu tôi là anh, tôi sẽ nói với Hoàng thân nghĩ lại việc xử công khai, ông ta có thể trả giá cho điều này bằng những mỏ dầu của mình.”

“Những mỏ dầu này thuộc về nhân dân Ả Rập Saudi.”

“Ồ, phải rồi,” Gabriel nói. “Tôi đang nghĩ gì vậy không biết?”

❀ ❀ ❀

Trong nhiều đêm tiếp, từ trong xà lim của mình, Gabriel nghe vọng lại tiếng la hét của những phạm nhân bị tra tấn. Không ngủ được, Gabriel bị nhiễm trùng và phải chích kháng sinh qua tĩnh mạch, ông bị sụt nhiều ký. Gabriel gầy đến nỗi khi ông được giải đến thẩm vấn lần tiếp theo, ngay cả tên chim ưng cũng tỏ vẻ lo lắng.

“Có lẽ ông và tôi, chúng ta có thể thỏa hiệp với nhau,” hắn gợi ý.

“Thỏa hiệp gì?”

“Ông trả lời những câu hỏi của tôi, và tôi sẽ để ông vừa kịp quay về với những người thân mà vẫn giữ được mạng.”

“Tại sao tôi phải tin anh?”

“Bởi vì hiện giờ, ông bạn thân mến, tôi là người bạn duy nhất của ông.”

❀ ❀ ❀

Có một sự thật hiển nhiên liên quan đến thẩm vấn. Sớm hay muộn sẽ phải khai. Không chỉ khủng bố, mà cả những sĩ quan tình báo chuyên nghiệp. Nhưng vấn đề là họ sẽ khai như thế nào , và khai gì để họ có thể nhìn thẳng vào mắt đồng nghiệp của mình nếu họ được thả ra. Gabriel hiểu điều đó, và gã chim ưng cũng vậy.

Tuần kế tiếp họ cùng nhau lao vào một vũ điệu lừa dối tinh vi. Khalid hỏi nhiều câu hỏi với từng từ trau chuốt và Gabriel đáp trả bằng những câu trả lời một nửa là thật, và nửa kia là những lời hoàn toàn dối trá. Những chiến dịch mà ông phản bội không tồn tại. Cũng như những tài sản đã thanh toán, nhà an toàn, hoặc những phương pháp để bảo mật thông tin liên lạc; tất cả đều được Gabriel bịa đặt trong thời gian dư dả mà ông ở trong xà lim. Có một vài điều mà ông yêu cầu không nên biết và những điều mà ông từ chối tiết lộ. Ví dụ như khi Khalid hỏi tên những gián điệp ngầm tại châu Âu thì Gabriel không nói gì. Ông cũng từ chối không trả lời khi được hỏi về tên những sĩ quan đã hợp tác với ông chống lại Rashid và Malik. Trước sự không nhượng bộ của Gabriel, tên chim ưng không tức giận, thật ra hắn còn có vẻ tôn trọng Gabriel hơn.

“Tại sao ông không cho tôi vài tên giả để tôi có thể đưa cho cấp trên của tôi?” Khalid hỏi.

“Bởi vì cấp trên của anh quá biết tôi để nhận ra rằng tôi không bao giờ phản bội bạn thân của tôi,” Gabriel nói. “Họ sẽ không bao giờ tin những tên tôi đưa ra là thật.”

Còn một sự thật hiển nhiên khác liên quan đến những cuộc thẩm vấn. Đôi lúc, chúng cho biết nhiều về người thẩm vấn hơn là người bị thẩm vấn. Gabriel đã biết Khalid là một kẻ chuyên nghiệp hơn là một tín đồ. Hắn không hoàn toàn là một người không hiểu lý lẽ. Hắn có lương tâm. Có thể điều đình với hắn được. Từ từ, dần dần họ có thể tạo ra một sự liên kết với nhau. Một liên kết giữa những dối trá, loại lừa dối chỉ có thể có trong thế giới ngầm.

“Có phải con trai ông đã bị giết chết vào cái tối ở Vienna không?” Khalid đột ngột hỏi vào một buổi trưa. Hoặc có lẽ vào đêm khuya; Gabriel chỉ có một khái niệm mơ hồ về thời gian.

“Con trai tôi không dính líu gì đến chuyện này.”

“Con trai ông dính líu đến mọi chuyện,” Khalid nói một cách ranh mãnh. “Con trai ông là lý do ông đã theo dõi tên shahid ở Covent Garden. Nó cũng là lý do ông cho phép Shamron và những người Mỹ dụ dỗ ông quay lại ván cờ.”

“Anh có những nguồn tin tốt đấy,” Gabriel nói.

Khalid mỉm cười chấp nhận lời khen. “Nhưng còn một điều tôi vẫn chưa hiểu,” hắn nói. “Làm thế nào mà ông có thể thuyết phục Nadia làm việc cho ông?”

“Tôi là dân chuyên nghiệp, giống anh.”

“Tại sao ông không nhờ chúng tôi hỗ trợ?”

“Các anh có hỗ trợ không?”

“Dĩ nhiên là không.”

Gã Ả Rập lật những trang của quyển sổ, hơi nhíu mày giống như đang xem xét sẽ hỏi tiếp Gabriel câu gì. Là một người sành sỏi trong việc thẩm vấn, Gabriel biết là tất cả màn trình diễn này có lợi cho ông. Cuối cùng, gần như bất chợt nghĩ ra, gã Ả Rập hỏi, “Có thật là cô ta bị ốm không?”

Câu hỏi làm Gabriel bất ngờ. ông không tìm được cách trả lời nào khác ngoài sự thật. “Phải,” một lúc sau Gabriel nói, “cô ta không còn sống được bao lâu.”

“Chúng tôi có nghe tin đồn về điều này một thời gian rồi,” gã Ả Rập nói, “nhưng chúng tôi không bao giờ chắc chắn.”

“Cô ta giữ bí mật điều này, không cho ai biết, kể cả nhân viên của cô ta. Ngay cả những người bạn thân thiết của cô ta cũng không hề biết.”

“Nhưng ông biết?”

“Cô ta tâm sự với tôi vì chiến dịch.”

“Và bệnh của cô ta là gì?” gã Ả Rập hỏi, giơ cao cây bút chì trên quyển sổ giống như bệnh của Nadia chỉ mà một chi tiết nhỏ cần làm sáng tỏ cho bản báo cáo chính thức.

“Cô ta bị một chứng rối loạn gọi là dị dạng động tĩnh mạch,” Gabriel trả lời một cách điềm tĩnh. “Bệnh này là sự nối thông bất thường giữa tĩnh mạch và động mạch trên não. Bác sĩ của cô ta nói rằng không thể điều trị được. Cô ta biết chỉ là vấn đề thời gian trước khi cô ta bị đột quỵ. Cô ta có thể chết bất cứ lúc nào.”

“Cho nên cô ta mới tự tử bằng cách hứng viên đạn dành cho ông trên sa mạc?”

“Không,” Gabriel nói. “Cô ta đã hy sinh chính mình.” Gabriel ngừng lại rồi tiếp. “Cho tất cả chúng ta.”

Khalid nhìn xuống đống hồ sơ một lần nữa. “Không may là cô ta đã tử vì đạo cho những phụ nữ cấp tiến của chúng tôi. Câu hỏi đã được đặt ra về những hoạt động từ thiện của cô ta. Rõ ràng cô ta là một loại người cải cách.”

“Vì vậy nên các anh phải giết cô ta?”

Mặt Khalid không biểu lộ điều gì. “Cô al-Bakari bị Rashid và Malik giết chết.”

“Đúng vậy,” Gabriel nói, “nhưng có ai đó nói với họ rằng cô ta làm việc cho chúng tôi.”

“Có thể là họ có một nguồn tin gần với người của các ông.”

“Hoặc có thể là chính các anh,” Gabriel trả lời. “Có thể Rashid và Malik chỉ là những con tốt, một phương tiện để loại bỏ một mối nguy hiểm nghiêm trọng cho gia tộc Saud.”

“Đây chỉ là một phỏng đoán của ông.”

“Đúng,” Gabriel nói, “nhưng nó được củng cố bằng lịch sử. Bất cứ lúc nào mà al-Saud cảm thấy bị đe dọa, họ đều nhờ vả những người có râu.”

“Những người có râu như ông gọi, là mối đe dọa của chúng tôi hơn là các ông.”

“Vậy thì tại sao anh vẫn còn hỗ trợ cho họ? Đã mười năm kể từ 11/9. Mười năm ,” Gabriel lặp lại, “và Ả Rập Saudi vẫn còn là máy in tiền cho khủng bố và nhóm Sunni cực đoan. Chỉ có duy nhất một lý do. Cuộc giao kèo với ma quỷ đã được khôi phục. Gia tộc Saud muốn làm ngơ trước những cuộc khủng bố của Hồi giáo chừng nào mà sự cuồng nộ thiêng liêng này hướng ngoại, xa những mỏ dầu.”

“Chúng tôi không mù như ông tưởng đâu.”

“Tôi đã rót cho nhóm khủng bố Sunni hàng mười triệu đô la trong vụ mỏ dầu của Ả Rập Saudi.”

“Đó là lý do vì sao ông ở đây.”

“Vậy tôi nghĩ rằng tù trưởng Bin Tayyib cũng bị giam giữ ở đâu đó trong tòa nhà này phải không?”

Khalid không trả lời, mà chỉ mỉm cười một cách khó chịu. Hắn hỏi thêm vài câu, không có câu nào quan trọng, sau đó buổi thẩm vấn kết thúc. Sau đó hắn làm một việc không bình thường là tháp tùng Gabriel về xà lim. Hắn nấn ná thêm một lúc ngoài hành lang trước khi mở cửa. “Tôi nghe nói là đích thân tổng thống Mỹ rất quan tâm đến trường hợp của ông,” hắn nói. “Theo tôi đoán thì ông sẽ không còn ở lâu với chúng tôi nữa.”

“Khi nào thì tôi có thể đi?”

“Khuya nay.”

“Bây giờ là mấy giờ?”

Gã chim ưng mỉm cười. “Quá năm giờ rồi.”

❀ ❀ ❀

Một bộ quần áo mới được trải trên giường trong xà lim của Gabriel. Khalid để Gabriel một mình thay đồ. Sau đó hắn hộ tống Gabriel lên nhiều cầu thang đến một sân trong. Một chiếc SUV đang đợi dưới ánh trăng. Chiếc xe rất lớn theo kiểu xe của Mỹ, cũng giống như bốn người đàn ông đứng xung quanh. “Tôi đã để hai thứ trong túi áo trên của ông,” Khalid nhẹ nhàng nói khi họ băng qua sân. “Một thứ là viên đạn đã bắn xuyên qua Nadia và trúng ông. Thứ còn lại là một lời nhắn cho Adrian Carter, ông hãy nghĩ đến nó như một món quà chia tay để giúp ông nhớ lại thời gian ông ở với chúng tôi.”

“Lời nhắn gì vậy?”

“Một vài thông tin mà ông ta sẽ thấy hữu dụng. Tôi sẽ rất cảm kích nếu ông không nêu tên tôi.”

“Có gì tốt không?”

“Thông tin à? Tôi nghĩ ông nên tin tôi.”

“Tôi e rằng tôi không quen với từ này.”

“Ông có học được điều gì từ cô ta không?” Khalid hất đầu về phía chiếc SUV. “Nếu tôi là ông, tôi sẽ nhanh chóng vào xe. Hoàng thân được đánh giá là người hay thay đổi.”

Gabriel bắt tay Khalid trước khi theo những người Mỹ. Họ đi rất nhanh đến một căn cứ không quân ở phía bắc Riyadh và đẩy Gabriel vào chiếc Gulfstream đang đợi ở đó. Trên máy bay có một bác sĩ; ông ta bơm dung dịch vào thân thể gầy gò của Gabriel và có vẻ lo ngại về tình trạng vết thương bên sườn của ông. Cuối cùng ông ta để Gabriel ngủ. Giấc ngủ của Gabriel đầy mộng mị về cái chết của Nadia, ông giật mình tỉnh dậy khi máy bay đáp xuống đường băng của sân bay thành phố London. Khi cửa máy bay mở ra, ông trông thấy Chiara và Shamron đang đợi ở đường băng, ông nghĩ rằng họ là hai người còn lại trên thế gian trông thảm hại hơn ông.