← Quay lại trang sách

bảy

Anh Ba thay đổi quyết định: anh mời Hai Cũ lên nhà anh. Anh thay đổi quyết định vì một sự cố - anh không nói với tôi là sự cố gì.

Tôi trông thấy Hai Cũ từ xa, dưới ánh trăng mờ mờ. Tôi mừng thầm. Hai Cũ đi còn vững vàng. Thú thật, tôi sợ Hai Cũ bị trói thúc ké, bịt mắt, nhét giẻ vào miệng... Hai Cũ đi gần tới, anh không bị còng. Tôi muốn cám ơn các anh trong Ty quá.

Hai Cũ đã vào sân. Tôi không cầm nổi nước mắt: anh tiều tụy, lưỡng quyền nhô cao, tóc bù xù, tay chân gầy rộc, râu mọc loạn xạ. Đồng thời, Hai Cũ lại có vẻ vừa hoàn thành một công việc gì đó, thần sắc thoải mái, đôi chân mầy giảng rộng.

Hai Cũ sững lại khi tôi đón anh ngoài sân.

Anh Ba mời ngồi. Hai Cũ ngồi đường hoàng. Anh bảo tôi:

- Chú khóc à? Việc gì khóc? Nếu chú tính tui là Việt gian thì Vệ quốc đoàn ai đời khóc Việt gian!

Giọng Hai Cũ trâm trầm. Tôi phân biệt trong câu nói của anh phần cảm động vì tôi với phần trách móc Ty Công an.

Theo chúng tôi hội ý trước, tôi đóng vai hỏi cung chính, các anh khác chỉ quan sát. Tôi giới thiệu anh Ba, anh Chín, anh Bảy với Hai Cũ. Tôi cũng tự giới thiệu. Hai Cũ nghe lơ đãng.

- Đâu, anh Hai nói cho nghe chuyện của anh... - Tôi mở đầu.

- Tui nói hết trong “tờ cớ” rồi đó!

Mọi người chưng hửng. Anh Ba ngó hai anh Chín, Bảy. Hai anh đáp lại bằng cái lắc đầu.

- Bây giờ, anh nói miệng đi!

- Muốn đọ coi trong “tờ cớ” với nói miệng có chỗ nào sai chạy không, chớ gì? Được, được! Còn cái thơ này nữa - Hai Cũ đưa mảnh giấy, chữ ngoằn nghèo. Tôi nhận, liếc qua, trao cho anh Ba.

Hai Cũ kể:

Khi Tây chiếm Biên Hòa, Hai Cũ dẫn dám cướp của anh chận đánh chúng dọc theo đường lên thác Trị An. Cũng đánh ào ào vậy, bởi súng đạn kém một phần, lính lác toàn tay dao búa, đâu chịu học bắn, nhắm mắt bóp cò, trúng trật thây kệ - là phần khác. Đã thế, quy củ trước sau vẫn là của đám cướp, muốn đánh thì đánh, buồn tình không thèm đánh, có trời mà ra lịnh cho họ cục cựa! Tây đóng đồn Cây Đào, Rạch Đông, Trị An. Tề mọc khắp vùng. Hai Cũ rút vô rừng, trở về gốc mấy cây cầy. Hồi Việt Minh chưa dậy, một đùm một túm vần theo gốc cầy, mã tà, sơn đá thụt trái phá tùm lum, không ai sợ. Bây giờ, bắt bén đóng quân ở nhà ngói, ăn có phụ nữ Tiền phong lo, đi có xe đò chở... nên dạt vô rừng mấy bữa, lính lác nghển ngãng ráo. Một số ra rìa làng, gầy sòng. Một số bắt gà bắt vịt của dân. Một số lân la ăn nhậu, mua bán, đĩ điếm với lính đồn. Có số toan trở lại nghề cũ, dọ đường đi nước bước mấy tiệm buôn... Tình trạng tác tệ này bị dân quân và quốc gia tự vệ cuộc [i] sửa cho nhiều trận, có trận đổ máu. Hai Cũ nổi nóng, bao dân quân, quốc gia tự vệ cuộc tước sung. Cả mấy tháng ròng, lính Hai Cũ lo ruồng bố quân kháng chiến chớ không đánh Tây. Cho đến Tết. Vợ Hai Cũ lên thăm, chị khóc lóc cả đêm: nhà Hai Cũ bị đốt, con bò mà thằng Mới cỡi cho ăn bị bắn mần thịt, thằng Mới khóc la, thiếu chút nữa là Tây bắn luôn thằng nhỏ. Tụi tề biết Hai Cũ vô rừng nên dẫn Tây làm chuyện đó. Không ở được làng cũ, vợ Hai Cũ cõng thằng Mới qua làng kế cận. Ủy ban làng giúp hai mẹ con che mái chòi đỡ nắng mưa, cho gạo muối, cho đất...

Hai Cũ tức tốc kéo binh về làng. Anh ví bọn “pạt-ti-san” [ii] chạy vắt giò lên cổ, đốt nhà làng, lôi tên hương cả ra bắn, giải tán ban tề. Địa phương liên lạc với anh, anh qua lại cho có chừng. Ý anh là không chơi với mấy cha chánh trị, anh có súng, có lính, cần chi nghe diễn thuyết? Anh tính hễ dọn được cái đồn Gò Xoài thì oai phong của anh lên tới chín từng mây. Mấy tay địa phương ngán cai đồn, chờ Hai Cũ lẫm liệt vầy, đồn khác nào cái gò mối.

Trận đánh thật tai hại. Cái đồn mới xây bằng đá tảng vuông vức bốn góc, góc nào cũng bố trí lô-cốt, giữa đồn thượng lên một mia-ra-đo cao nghệu, trong chứa cả đại đội Âu - Phi, ngoài ba bốn lớp rào, hào nước rộng... Hai Cũ nã các cỡ súng mà anh có: súng lửa, mút “Anh-đô-si-noa” [iii], mút Nhựt... Đồn không tróc lấy một hột đá! “Pháo kích” đã đời rồi, binh Hai Cũ kéo vô đình, huênh hoang về “sự thiệt hại nặng nề” của Tây, thui chó nhậu một trận “mừng công” tưng bừng, đến nỗi sáng sớm, Tây bao chữ “O”, không người nào biết súng mình quăng ở đâu, cầm súng cả buổi mà mò chưa ra chỗ lên cò! Hai Cũ chỉ còn kịp vớ khẩu súng ngắn, mặc mỗi cái quần xà lỏn, cùng vài vệ sĩ chạy trối chết. Quân mã của anh tan rã, lớp bị giết tại trận, lớp đầu hàng, lớp lạc bầy. Hai Cũ rầu thúi ruột, bó gối giữa đám mía, nhịn đói nhịn khát suốt tuần lễ.

Chuyện công đã vậy, chuyện tư ảo não không kém. Tây bắt vợ Hai Cũ với thằng Mới, giam ở đồn Gò Xoài hẹn Hai Cũ ra đầu thú thì cho vợ con bình yên, bằng không sẽ bắn. Anh biết thời buổi này vượt ngục không dễ, nên đau thì đau chớ không chịu.

May sao Việt Minh địa phương lần hồi gom số “bò lạc” của quân Hai Cũ, góp nhóp được vài chục, họ lại giúp Hai Cũ đưa số quân chưa lợi nghĩnh ấy về đóng ở vùng an toàn, thuộc quận Long Thành. Hai Cũ theo “sách” sở trường của anh: rình lính Tây, lính ngụy đi mồ côi, đập đầu cướp súng; dụ tụi đồn nhậu say hốt mớ súng khác... Cứ vậy “vệ binh Hai Cũ” nới nang lần, sau Thỏa hiệp án 14-9, lên đến vài trăm.

Rồi đại diện của Trung tướng [iv] tìm gặp. Nghe danh Trung tướng, anh “khiếp kỳ oai, hoài kỳ ngỡ”, nên chịu phục. Vả lại, chỉ đổi tên thôi - “vệ binh Hai Cũ” thành “Đại đội 3 thuộc phân khu Duyên Hải”. Phân khu Duyên Hải là cái “sự” gì, Hai Cũ bất biết! Chỉ đổi có cái tên mà được coi là lính chính quy, được quân nhu cấp gạo, thịt, được phát cho đạn, nhất là được Trung tướng tặng một khẩu Tôm-xông, một khẩu Côn 12 - quà dành riêng cho Hai Cũ - một khẩu đại liên Mắc-xim và hai khẩu FM “đầu bạc”! Lại lãnh tiền hằng tháng, toàn hạc xanh [v] không. Lính của Hai Cũ thì vẫn do Hai Cũ chỉ huy. Sướng cha đời, sao lại từ chối?

Chị Hai dẫn thằng Mới thăm anh. Anh mừng quýnh. Tưởng vợ con “tiệu dên” rồi chớ! Chị Hai cho biết nhờ anh gì đó - hồi trước là đội mã tà, có dẫn chị đi dụ hàng anh, bây giờ làm quan một - chạy chọt khắp chỗ, tốn kém bạc ngàn. Tây mới thả mẹ con chị. Chị Hai quên tên viên đội mã tà. Hai Cũ không bao giờ quên: Đội Lộ. Lộ hẹn gặp Hai Cũ. Ừ, thì gặp. Nó ra ơn, mình không một lời phải quấy với nó, coi sao tiện.. Chuyện cũ hơi sức đâu mà nhớ. Thằng coi vậy không đến đỗi thù vặt cú đấm sặc mùi năm xưa... Nó làm đội làm ách hay quan một, quan hại, kệ mồ tổ nó!

Lộ và anh nói chuyện trong một cái quán dựa đường 15. Nhậu lai rai, Lộ trao cho anh thơ của Bảy Viễn. Ông Bảy này mới dị. Đường đường là Khu bộ phó [vi] mà gởi thơ cho một đại đội trưởng lại qua tay một thiếu úy trong quân đội Tây! Anh mau lẹ gạt bỏ thắc mắc của mình: Ối! mấy cha lớn này “mưu kế” hơn Khổng Minh, mình xía vô chi cho mệt óc! Cũng như anh nghĩ về Lộ: va nhảy một cái rẹt từ đội lên quan một chẳng khác chi mình - mình nhảy còn lẹ hơn va, - từ chúa đảng lên đại đội trưởng! Thời thế mà! Còn tại sao va vừa là quan một Tây, vừa là bộ hạ ông Khu bộ phó, cái đó rối như mớ bòng bong. Hai Cũ tự giải đáp: Ôi! “ăn nhậu” gì tới mình...

Trong thơ, Bảy Viễn kêu anh bằng “chiến hữu quốc gia” - anh nghĩ: chắc đây là tiếng lóng “tân thời” của cánh ăn cướp. Bảy Viễn mời anh “hợp tác” với ông ta. Thì, anh đã là đại đội trưởng, dưới quyền của ông - ông ta vừa Khu bộ phó vừa kiêm chỉ huy trưởng Phân khu Duyên Hải - còn hợp tác hợp tung gì nữa? Nếu định lập gánh lục lâm bề thế, anh xin thôi... Vả lại, anh đã hứa với Trung tưởng rồi, sớm đầu tối đánh, đâu phải cách của Hai Cũ!

Lộ ép anh nhận số tiền của Bảy Viễn. Anh nhứt định lắc đầu. Gì chớ nhần tiền bạc, nhẹ thể lắm!

Chia tay Lộ, anh thoáng thấy trên xe Lộ, một đứa giống y Sáu Xít...

Tin Bảy Viễn làm phản khiến anh buồn. Anh buồn ở chỗ giới giang hồ mang tai tiếng. Đã theo thì theo tới cùng, không theo thì ngay ngày đầu đừng theo. Có ai ép? Anh cũng không màng chuyện quan một Lộ gặp anh. Anh chỉ bận tâm trong đại đội anh vài người vượt sông Soài Rạp theo Bảy Viễn.

Đùng một cái, anh bị bắt. Nghe đọc lịnh bắt anh, anh nổi sùng, toan đánh trả, ra sao thì ra! Hai Cũ chớ phải con gà, con heo đâu mà ai muốn bắt, viết giấy tới bắt? Nhưng, người ta không bao vây, không nổ sung. Người ta đọc lịnh thôi... Ai ký tên trong lịnh, anh không biết. Ngặt người đọc lịnh thì lại là ông Việt Minh quận - ông này nghe nói làm quốc sự hồi anh chưa đẻ, tù Côn Lôn năm lần bảy lượt, thường lui tới với anh, giúp anh lúc anh “thất máy binh”. Anh vẫn ngưỡng mộ ông, coi như là bực “chánh vi quân tử”.

Thôi thì tuân lịnh. Mình vô can vô cớ, sợ gì. Ngại là ngại quân tướng của anh làm hỗn. Anh dặn tới dặn lui ở nhà “án binh bất động” đợi anh. Đừng nghe tin đồn bậy, nóng mũi sanh sự mà khó cho anh. “Cấp trên xử ức, lao kiện ra Cụ Hồ, chớ có lo!”.

Từ Long Thành lên Ty, đi ba bữa. Chẳng ai còng trói anh. Áp giải là hai anh công an huyện, đeo khẩu súng lục nội hóa, bắn phát thứ nhứt đạn văng được chục thước, phát thứ hai, đạn rớt tại chỗ, còn phát thứ ba thì nòng phình như đàn bà chửa!

Đến trại giam, anh định chắc hôm sau, người ta hỏi cung. Thì biết gì khai nấy. Lẹ lẹ còn về đại đội chớ!

Chỗ giam anh là một căn nhà lợp lá trung quân, nằm giữa rừng. Chỉ giam mỗi mình anh.

Sáng hôm sau, anh chờ. Một người đến. Đó là người mang cơm. Chắc cơm nước xong, người ta mới làm việc. Lại có người đến: người dẹp chén bát. Lát sau, lại có người đến: cũng anh đó đem ấm nước... Trưa: cơm rồi nước. Xế: nước tắm. Chiều: cơm rồi nước... Hết một ngày. Đêm trước, anh ngủ ngon. Đêm sau, anh thức.

Ngày thứ hai: như cũ.

Ngày thứ ba: vẫn như cũ.

Ngày thứ tư, anh xộc ra ngoài. Trạm gác mời anh vô nhà...

Ngày thứ năm, anh làm rầm!

- Tui mọc rêu rồi! Hỏi cung đi chớ!

Mấy trái cây rụng lộp độp trên nóc trả lời anh.

Ngày thứ sáu, anh nhịn cơm. Nhịn ngày thứ bẩy, thứ tám. Người mang cơm năn nỉ anh, anh ăn trở lại.

Ngày thứ mười, anh thộp ngực người mang cơm.

- Nè! Nếu tui có tội thì đem bắn, còn không, thì thả... bỏ xó tui ở đây, tui chửi đa!

Và, anh chửi thiệt.

Bầy khỉ nhe răng đáp lại anh.

Anh tính kế khác, xin giấy viết. Chữ nghĩa không bao nhiêu, anh cũng gò lưng viết, viết cả nửa tháng. Anh viết “tờ cớ” gởi Cụ Hồ.

- Cụ Hồ mà đọc tờ cớ này thì tụi bây bị cạo đầu khó tô dầu ráy hết trơn!

Trong “tờ cớ”, Hai Cũ thuật từ đầu chí cuối chuyện của anh.

Gởi “tờ cớ” đi rồi, anh thắc thỏm chờ, chắc mẻm thế nào cũng “thấu tới thiên đình”.

Chẳng biết đại đội ra sao? “Mấy ông non” của mình chịu nằm yêu không? Người ta đã làm gì họ rồi? Ở đây, y như trong ve chai nhét nút, bít bùng tin tức.

Hai hôm sau, lính mời anh xuống cái hầm gần đó, thưa với anh là từ nay không nên lên khỏi hầm nếu không có lính cho phép. Tối, người ta còng tay anh - một sợi dây lòi tói nối còng với khúc gỗ súc, chục người khiêng chưa chắc nổi.

A, ra vậy! Họ nhứt quyết giết anh. Anh đổ lì. Mồ tổ cha nó, giết thì giết... Thân anh như cá trên thớt, thở than, năn nỉ làm mẹ gì... Đôi khi anh hối nhẹ dạ tin ông Việt Minh quận. Đôi khi anh tính vượt ngục. Kể ra anh dư sức làm việc đó. Ngay cả bây giờ... Song, cái giằng giữ anh lại chính là anh: Nên trốn không?

- Tụi bây sợ “tờ cớ” của tao... Ty Công an có lính kín Tây! Định thuốc tao, định thủ tiêu tao thì mần lẹ đi, còng trói chi cho mệt. Tao mà muốn trốn một trăm cái hầm, một ngàn cái còng tao cũng thị như đồ bỏ. Nói thiệt, tao có chết cũng hiện hồn về vặn họng bây... Ba Râu là thằng Việt gian!

Thay vì tính vượt ngục, Hai Cũ chửi. Chửi, thét, anh mệt. Anh xin giấy viết. Lần này anh đòi xử anh ngay, bắn hay chém chật đều được. Anh chỉ mong đừng làm khó dễ lính tráng của anh. Nếu có lỗi, lỗi ở anh, họ vì nghe anh mà đi kháng chiến... Tội nghiệp họ. Họ cùng anh sanh tử, có nhau đã nhiều năm. Trong họ, người tốt người xấu lẫn lộn. Chánh phủ coi ai xài được thì xài, ai không xài được cho về nhà mần ăn. Có anh câu thúc, họ không quá trớn, ở với người khác, họ dở chứng, khó trị lắm...

Thơ chưa gởi thì chiều tối hôm nay, một người xuống hầm gặp anh. Làm sao Hai Cũ tưởng tượng nổi người gặp anh là Sáu Xít. Y tự giới thiệu: cán bộ Phòng Chấp pháp. Ôi thôi! Ty công an rặt ròng loại Sáu Xít. Hèn chi. Ngoài cái chức “cán bộ”, Sáu Xít nguyên vẹn là thằng con của cai tổng On: cặp kiếng cận - người ta nói nó chẳng “cận” quái gì cả - cái đồng hồ Pranh-ta-nia, da mặt nó hồng hào, mùi dầu thơm và bao thuốc lá đít vàng ló trong túi áo. À, nó có một cái khác ; khẩu Vic-ke bên hông.

Sáu Xít gọi rằng đến hỏi cung mà đi mình ên, không mang theo sổ sách gì hết. Y ngồi ví đóc trên chõng.

Hai Cũ hết chịu đựng nổi. Đổi đời đến mức Sáu Xít hỏi cung Hai Cũ, còn có tuồng diễn nào chọc cười hơn? Hai Cũ, dầu hèn cũng thể, Sáu Xít là thứ cứt trôi sông bày đặt hỏi cung anh. Thời nay đâu phải thời xưa; Tía Sáu Xít là cai tổng On từng hỏi cung Hai Cũ. Nhớ tới lần hỏi cung đó, Hai Cũ nghiến răng trèo trẹo. Mỗi câu hỏi của cai tổng On đệm bằng vài chục tiếng trót trót của roi cật bò bóc thịt da Hai Cũ. Mỗi câu trả lời của anh đệm ngần ấy âm thanh.

... Hai Cũ vừa mới cưới vợ. Khách khứa đến nhà anh nườm nượp, đủ hạng người. Số cùng anh chăn bò, mót củi lúc anh còn mũi dãi lòng thòng. Số cu-li sở cao-su. Số sốp-phơ, lơ xe.

Cuộc vui đang nửa chừng, trên đường cát băng qua nhà Hai Cũ, một đám trẻ nít chạy theo một người, quần áo rách te tua, mình mẩy trầy trụa, mí mắt tím bầm. Hai Cũ thấy lạ, mời người đó vô nhà. Anh ta tên là Út Giảng, thợ đục đá, chưa từng quen Hai Cũ.

Thường thường, Út Giảng đi làm về tránh ngõ nhà cai tổng On, bởi anh ta sợ bày chó Tây, con nào con nấy lớn gần bằng con nghé. Hôm nay cũng vậy, anh vác đục men theo lối mòn. Bỗng, một con chó sút xiềng, không sủa mà từ trong bụi rậm bất thần lao ra chồm hai chân lên cào ngực anh, còn hàm răng chơm chởm thì ngoạm cổ anh. Út Giảng buộc phải chống đỡ. Anh vung cây đục đập vào chân chó, bị đau, chó kêu “ẳng ẳng” không dám xáp gần anh. Tưởng là yên, Út Giảng vuốt máu, đi thụt lùi từng bước. Nhưng, cai tổng On đã sừng sững ở đó, hắn “suỵt”, con chó lại xông lên. Út Giảng tuy sợ cai tổng On song biết rằng anh mà chậm tay thì bị chó xé xác ngay nên nện thẳng cánh. Chó thấm đòn, chỉ gầm gừ xa xa. Thế là cai tổng On nắm đầu anh, tát mấy tát liền. Hắn chửi Út Giảng, đòi tiền “cơm thuốc” cho chó và dọa xua con chó khác trị tội Út Giảng, Út Giảng chỉ còn nước gạt nước mắt, lủi thủi về.

Nghe xong, Hai Cũ gầm như cọp, chạy vụt đi. Lát sau, anh lôi về xác con chó bị anh đập bể đầu. Kẻ mua dừa khô, kẻ mua ngũ vị hương, kẻ bắc nước cạo lông... Chó Tây của nhà giàu thịt đầy một sàng, mặc tình luộc, xào lăn, khìa, nấu cháo đậu xanh... Út Giảng cũng dự bữa nhậu linh đình đó.

Chuyện không chấm dứt mà mới bắt đầu. Hôm sau, làng đòi Hai Cũ ra nhà việc. Cai tổng On cầm sẵn roi cật bò đón anh.

- Ai bắt con Mi-nô của tao?

- Tui?

- Tại sao may bắt?

- Nó cắn người ta!

- Nó có cắn mầy không?

- Không!

- Vậy thì ăn thua gì tới mầy mà mầy bắt?

- Thấy gai con mắt, nên bắt!

- Con chó đâu rồi?

- Mần thịt!

- Mầy biết giá con chó là bao nhiêu không?

- Ông có biết giá mạng người là bao nhiêu không?

- Tụi bây tùng tam tụ ngũ, ngày nhậu thị chó, đêm cạy cửa...

- Mấy ông còn tệ lậu hơn, đêm nhậu thịt bò, thịt gà bắt của thiên hạ, ngày cạy tủ của thiên hạ!

- Mầy dám trả treo với tao hả?

Hai Cũ bị mấy chục roi, rồi bị trói ba ngày đêm. Sau đó, bầy chó của cai tổng On rủ nhau chết sạch - con bị thuốc. Con mất tích. Hai Cũ dọn nhà. Anh bỏ nghề lơ, qua nghe giật giọc và “thân chủ” đầu tiên của anh là cai tổng On. Anh cảnh cáo hắn bằng cách xách nguyên cái cặp của hắn trên xe lửa. Cai tổng On truy nã anh. Anh lập đảng cướp.

Khi anh có thể lột da cai tổng On, hắn có lẽ sợ quá nên chết trước. Đáng lý nhà cai tổng On phải bị gánh của anh “mần thịt” khi “Đảng Hai Cũ” tế cờ!

Bây giờ, trước mắt anh là thằng con cai tổng On. Nó hỏi cung anh! Chắc nó tính cái còng giúp nó làm trời như cha nó. Thiệt là ngu! Tao mà không theo câu nói cùa ông bà “đánh chó phải kiêng chủ nhà” - Sáu Xít là cán bộ của Chính phủ mà - thì mầy vừa lò mò xuống hầm, tao đã cho mầy theo thằng cha mầy rồi...

- Anh lớn đầu mà còn dại... - Sáu Xít lên mặt - Sao lại viết thơ gửi cụ Hồ?

Hai Cũ chẳng thèm ừ hử.

- Đây ra Bác, thơ đi cả năm. Bộ anh tính ở tù rục xương sao?

Kệ mẹ mầy, mầy muốn nói gì cứ nói... Tao không tính gì hết, ngoài cái tính: đừng có mà trửng giỡn với Hai Cũ!

Sáu Xít bỗng lết gần anh mắt láo liêng, hạ giọng khào khào:

- Chỗ quen biết, tôi không nỡ để anh chết oan. Ty công an đã nghị quyết thủ tiêu anh, hoặc tảng sáng mai, hoặc ngay đêm nay...

Cái đó, không càn mầy nói, tao cũng biết... Mầy là Ty Công an, chớ ai?

- Tôi giúp anh. Tôi để chìa khóa còng dưới mí đệm. Anh mở còng, trốn đi. Trốn ngay!

- Trốn đi đâu? - Đó là câu duy nhất của Hai Cũ từ khi Sáu Xít gặp anh.

Sáu Xít hí hửng:

- Hướng Nam, đi miết, gặp lộ 16... Theo đường mòn, không có trạm canh... Tới Tân Long thì chắc anh biết rồi. Tìm ngã ra Tân Uyên... Hai đêm thôi...

Thật tình Hai Cũ không kịp suy tính. Cái thằng chết bầm này phản! Thứ phản để sống chi cho chật đất!

Hai Cũ bỗng quên, nội đêm nay, anh chết. Anh chỉ nhớ là Sáu Xít trong tầm tay anh.

Ánh đèn lù mù nên Sáu Xít không thấy cặp chân mày Hai Cũ đang nhíu lại.

Hai Cũ đứng lên. Anh giơ cái còng định giáng vào đầu Sán Xít - sợi lòi tói khua rổn rảng.

Sáu Xít bật dậy, lùi mấy bước, móc súng.

Chân trái Hai Cũ lẹ như sao xẹt, hất khẩu súng văng tận góc hầm. Cú đá chân phải của anh - anh sử dụng thế “song phi liên hoàn” - trúng ngay cổ Sáu Xít. Sáu Xít bị hất bổng khỏi mặt đất, sau tiếng “hự” khô khan, bổ ngửa. Cuống họng y vỡ, cằm nát.

Khi người gác đi xuống. Sáu Xít đang thoi thóp. Hai Cũ bình thản, cơn giận giảm xuống một nửa.

Hai Cù theo lính đến nhà anh Ba. Anh đi trong tư thế ra pháp trường.

- Tui nói hết! Có bấy nhiêu đó..

Hai Cũ nâng chén trà, ung dung uống, mắt long lanh.

- Bây giờ, xin quý anh cho phép lắm rửa, hớt tóc cạo râu. Để ra pháp trường không đến nỗi bệ rạc..

Trong nhà nghe anh nói, không ai là không thương anh.

Song, chúng tôi còn bận chuyện khác, khi anh Ba nhắc:

- Thằng Phẩm!

Anh Bảy, Ban Chính trị, lật đật ra khỏi nhà.

Bấy giờ, anh Ba mới cười khà khà, quàng vai Hai Cũ:

- Có ra trường bắn thì cũng bỏ bụng cái gì chớ! Kẻo làm ma đói!

Anh kéo Hai Cũ sang chiếc đệm trải trên nền đất, nồi cháo gà đang bốc hơi nghi ngút.

Anh Chín phó ty kêu thảng thốt:

- Bò đực sắp đẻ! Chư vị thấy không? Lão Ba Râu mà dám đãi cháo gà giữa chiến khu Đ là việc tự cổ chí kim chưa hề có!

Anh Ba còn phá lệ nhậu với Hai Cũ. Anh coi Hai Cũ là thượng khách.

Chuyện tất nhiên phải kết thúc làm vậy: Ổ gián điệp của Phòng Nhì bị phá. Sáu Xít - còn nói được trước khi tắt thở - khai một hai đầu mối. Ty phăng ra. Tuy nhiên, SCANBÔ và Tỉnh ủy khiển trách Ty rất nặng: đã để Phẩm, Sáu Xít thâm nhập vào nơi trọng địa lại còn chậm tay, để Phẩm thoát lưới.

Khi anh Bảy hộc tốc cùng bảo vệ đội đến nơi Phẩm ở thì nó đã cao bay xa chạy hơn tiếng đồng hồ rồi! Vài hôm sau, tin về: Phẩm ngồi xe dip trên đường Tân Uyên - Biên Hòa, lon “át-pi-răng” (chuẩn úy).

Nội vụ được viết thành báo cáo:

Phẩm và Sáu Xít chưa hay Hai Cũ bị bắt. Lý do: Lệnh bắt Hai Cũ do Quân pháp Khu bộ ký. Ban Chỉ huy Quân sự huyện thực hiện. Công an huyện tiếp nhận và chuyển lên Ty. Hồ sơ ghi vỏn vẹn: Tình nghi dính líu với Bảy Viễn. Ban Chính trị Ty thấp cấp bực quân đội là đại đội trưởng thuộc loại “nghi vấn”, nên cho hưởng chế độ tạm giữ - nửa như tù, nửa như cán bộ chờ kỷ luật. Hằng ngày, lính gác, lính phục vụ phản ánh thái độ Hai Cũ lên ban, đồng chí phó ban bê bối nhiều vụ trọng án khác, làm lơ, chỉ dặn là săn sóc Hai Cũ chu đáo, anh Bảy và cả trưởng phó Ty biết tin về Hai Cũ ở mức đó.

“Tờ cớ” của Hai Cũ đến phó ban. Đồng chí thấy nó dài, chữ khó đọc, văn quá lỉnh kỉnh, nên giao cho Phòng Chấp pháp. Phó phòng Chấp pháp là Phẩm. Tới khi đó, Phẩm mới hay Hai Cũ có mặt ở trại giam. Nó hốt hoảng, đọc “tờ cớ”, nó bủn rủn chân tay. Ty mà biết, nó và đồng bọn chết không kịp ngáp!

Phẩm đang sa đà trong một “mê hồn trận”. Phòng Nhì ra lệnh nó phải giải thoát bằng được một số tay chân đang bị giữ qua tảo thanh. Nó với Sáu Xít và nhóm của nó - bốn đứa nữa - đã tiến hành một loạt biện pháp: hoàn thành hồ sơ bọn tay chân Phòng Nhì bị giữ, không tên náo là trọng phạm, có tên trắng án, chỉ cần trưởng ty ký duyệt thì thả ngay. Số lưu manh - nhưng không phải Phòng Nhì - lãnh bản nhận xét nhẹ hay nặng là tùy chịu khai theo hướng của chúng hay không. Chúng lái số lưu manh khai vào nội bộ ta. Một ít tên trong số này lãnh trọng án - cùng vài tên Phòng Nhì hạng “ruồi”. Dẫu sao, muốn che mắt thế gian, cần thí đôi ba con chốt. Nhưng trọng án hầu hết rơi lên đầu số vô tội, thậm chí, số trung kiên cách mạng. Phẩm xoay xở khôn khéo, trưởng phòng tin cậy nó - tất nhiên, Phẩm không bao giờ tỏ ra bủn xỉn trong những vụ trà nước, thuốc men... Tuy vậy, qua “cửa ải” Ban Chính trị gian nan hơn nhiều. Bao nhiêu hồ sơ gửi lên đều bị trả lại, với lu bù dấu hỏi và gạch đỏ, yêu cầu bổ túc hoặc làm rõ hơn. Sau, Ban Chính trị, còn Ty. Sau Ty, còn tòa án. Phẩm nhiều lần xin “xử tắt”, lần nào cũng bị bác. Nó và Sáu Xít tính đến phương án vượt ngục tập thể và không loại trừ khả năng phối hợp với quân Pháp biệt kích hoặc nhảy dù...

Hai Cũ xuất hiện, bài toán thêm số mới, trăm phần rắc rối. Phải “bịt miệng” Hai Cũ. Bịt miệng bằng cách nào? Chúng kê một loạt phương án: thuốc, giết lén, thúc Ty hành quyết... Bước thứ nhất: nhốt Hai Cũ dưới hầm, còng ban đêm. Bước này chẳng có gì khó khăn - Phó ban Chính trị đồng ý ngay khi nghe Phẩm mô tả bản lãnh vượt ngục của Hai Cũ.

Hai Cũ đâu có ngờ người nấu bếp, bưng cơm... vô tình giữ mạng sống cho anh. Việc đầu độc Hai Cũ khó có mòi thành công.

Giết lén anh cũng chẳng phải trơn tru. Lính canh nghiêm ngặt vô cùng. Dầu bò tới hầm, hễ nổ súng là vô phương thoát. Còn dùng dây siết họng hay dùng dao, tên nào cũng lừng khừng: tuy bị còng, Hai Cũ vẫn đáng sợ!

Mua chuộc bộ phận coi trại giam đâu phải chuyện đầu hôm sớm mai!

Phẩm với Sáu Xít tính một kế nữa: treo miểng kiếng lên ngọn cây làm ám hiệu cho máy bay quăng bom giết Hai Cũ. Chúng đã treo được rồi. Song còn đợi đầm già phát hiện...

Tôi đến Ty là yếu tố đột xuất, Phẩm hay một cán bộ khu đến Ty ngay khi tôi trình diện với anh Ba. Phó ban Chính trị thúc hối nó: cán bộ quân sự cần đọc hồ sơ các can phạm. Nó chưa rõ cán hộ quân sự cấp nào, song nó biết vụ Hai Cũ không ém nhẹm được nữa. Chờ máy bay lâu quá. Nó bàn với Sáu Xít: Sáu Xít đánh tháo Hai Cũ, dùng đội gác khử Hai Cũ. Ví dụ đội gác không khử kịp, Hai Cũ trốn, mọi sự rối tinh, sau này tùy cơ ứng biến. Chúng quyết định hành động ngay. Gặp tôi, nó càng quýnh.

Trong cuộc họp, lúc đầu, Phẩm chưa quyết liệt. Nhưng khi anh Ba đồng ý gặp can phạm, nó thấy nước đã tới trôn. Chỉ cần chậm một tối...

Sáu Xít “hự” trong hầm, Phẩm núp cách đó không xa.

Hai Cũ nghe mọi tình tiết giữa lúc chúng tôi sửa soạn trở về Đại đội 3 - tôi được chỉ định quyền chính trị viên cho anh.

- Tui mà nắm được thằng Phẩm, tui đập đầu nó như đập đầu cá lóc!

Chú thích:

[i] Công an ta hồi đầu kháng chiến Nam Bộ.

[ii] Thân binh (ngụy)

[iii] Súng trường sản xuất ở Đông dương.

[iv] Trung tướng Nguyễn Bình

[v] Tiền Đông Dương ngân hàn

[vi] Tức Phó tư lệnh quân khu