← Quay lại trang sách

tám

Hai Cũ trở về đại đội vui buồn lẫn lộn. Chẳng vì hơn tháng bị giam mà anh buồn.

Tâm trạng của Hai Cũ gắn liền với bước đi của đại đội. “Vệ binh Hai Cũ” lột xác, Hai Cũ qua những cơn dày vò giống con trăn đổi lốt.

Số người theo anh thuở “khải sơn phá thạch” vơi dần. Có cái mất mát làm Hai Cũ ngậm ngùi. Cơn dùng lắc dữ dội của thời cuộc mấy năm qua gạt ra rìa nhiều hạt lúa lép. Không đơn thuần do Bảy Viễn làm phản và đợt thanh trừng tiếp theo. Với thời gian, cuộc kháng chiến hiện lên mỗi lúc mỗi rõ nét tầm vóc cao lớn, đặt ra những đòi hỏi nghiêm túc, và từ những cuộc hành quân thâu đêm len lỏi qua các xóm làng dày đặc đồn bót địch, qua rừng rậm chưa có dấu chân người, qua đồng trảng dưới mưa dầm hay nắng gắt - mà hành trang người lính, ngoài khẩu súng cổ lỗ, còn vỏn vẹn cái ruột tượng gạo và vi trùng sốt rét - mọi toan tính này khác dễ tan biến. Kháng chiến không phải là đám cúng đình, nơi bọn tề nghiêng đũa gắp những miếng thịt ngồn ngộn - tha hồ nhậu, vừa ngồi chiếu trên vừa danh vang, vừa khỏi phải trả tiền. Kháng chiến không phải trò du lịch giải trí cho những kẻ vô tích sự. Sau rốt, kháng chiến không phải là một cuộc phiêu lưu nhằm thỏa mãn óc tò mò - dù do cao bồi phương Tây hay anh hùng hảo hán phương Đông vẫy gọi.

Tự những cái đó đã sàng lọc...

Hai Cũ trầm ngâm trước bảng kê: đào ngũ, chạy ra đồn Tây, theo Bảy Viễn, bị cách mạng trừng trị. Đây là làn thứ hai “gia tài” của Hai Cũ lộn ẩu - lần trước, sau trận đánh đồn Gò Xoài. Lần trước Hai Cũ rầu rĩ. Lần này, Hai Cũ chua xót. Nhất là khi máy bay đầm già rải trắng trời truyền đơn - vài người mà Hai Cũ từng nghĩ rằng họ dù sinh không cùng tuổi với anh sẽ chết cùng ngày với anh đã dựng đứng những điều nói xấu anh - những điều Hai Cũ chưa bao giờ thoáng nghĩ chứ đừng nói anh phạm phải. Hai Cũ lặng người đọc tờ truyền đơn ấy.

Tất nhiên, trong Đại đội 3 còn có một bảng kê khác: theo nhu cầu của chiến trường, cấp trên điều một số người của anh sang các đơn vị đang cần. Đó là những hạt lúa chắc qua cơn gió quạt. Hai Cũ hiểu rằng anh nở mặt nở mày với thiên hạ nhờ những hạt lúa chắc này. Rồi đây, ở Vườn Thơm, ở Giồng Dinh người ta đồn đãi về một đại đội trưởng Hai Cũ giỏi dạy lính.

Mỗi khi tống tiễn số nòng cốt này, Hai Cũ rót rượu mời họ. Qua họ, anh đo lường được sự nảy nở của đơn vị - sự nảy nở đồng thời cũng xóa dần cái nét riêng của Đại đội 3 mà Hai Cũ trước đây thương, tủm tỉm cười, bởi cái dấu ấn đậm do anh đóng vào nó. “Đại đội ông Hai Cũ” - bây giờ vẫn có người gọi như vậy - song chẳng qua vì thói quen.

Các nhà viết sử rồi đây sẽ lên bàn mổ hiện tượng chuyển hóa từ “Vệ binh ông Hai Cũ” sang Đại đội 3 - một phiên hiệu của Vệ quốc đoàn. Dưới ánh sáng của tiến bộ khoa học lai giống lúa, các nhà viết sử có thể giải thích quá trình biến đổi một hiện tượng xã hội lại có vẻ như mang chung thông số với quy luật sinh thái..

Nhưng đó là chuyện sau. Bây giờ chúng ta hãy trở lại với Hai Cũ và thời điểm được coi như quá độ trong bước chuyển hóa trên.

Phải nói rằng không phải hoàn toàn suôn sẻ trong quan hệ giữa tôi và Hai Cũ khi chúng tôi ở chung tại Đại đội 3 với cương vị đồng chịu trách nhiệm sắp xếp và chỉ huy đơn vị. Trước kia, quan hệ giữa tôi và anh nằm dưới một dạng khác - khó phát sinh mâu thuẫn. Khi mà chuyện ân nghĩa lùi dần về quá khứ, khi mà vai trò của chuyện ân nghĩa ấy bé nhỏ dần trước những chuyện khác to rộng hơn, giữa tôi và anh đôi lúc còn lại cái chỗ đứng khá trơ trụi: một chánh trị viên và một đại đội trưởng.

Dưới mắt Hai Cũ, tôi trở nên nhập nhòa. Một “chú nhỏ” - bao giờ Hai Cũ cũng thích nhìn tôi từ góc độ đó. Có thể cái hay hay ở một “chú nhỏ” dám cầm cây đòn gánh đón Hai Cũ trên xe lửa - trong một va chạm không cân sức - sống dai dẳng nhất trong anh, nó ăn với cái đạo lý “giữa đường dễ thấy bất bằng mà tha”, là cái mà Hai Cũ tôn thờ gần như sự phân chia chính với tà. Song, tôi vẫn chưa từng “đổ máu” nên chưa được kể vào hạng “ăn tiền”, chưa được Hai Cũ và bè bạn của anh làm lễ “bấp têm” cho vô đạo. Với Hai Cũ, tôi còn một nhược điểm nữa: tôi có học. Hai Cũ xếp hạng có học - bất cần học cỡ nào - chung một rọ với hương quản Đực, đội Lộ, Phẩm... “Việc binh”, theo Hai Cũ, không phải là “nghề” của những kẻ đại loại như tôi.

Song, tất cả những cái trên chưa nghiêm trọng bằng chức chính trị viên. Vào thời buổi hỗn độn này, chính trị viên thường bị các chỉ huy trưởng kiểu Hai Cũ liếc xéo: một hình thức lính kín, một thứ cặp rằng, một tay tầng khạo lấy mồm mép thay cho bóp cò súng. Chính trị viên thì nhất định là đảng viên. Đảng viên chưa phải đã được nhìn nhận -cả lý lẫn tình - như cái gì thiết yếu đối với cuộc sống.

Nếu Hai Cũ không phải là Hai Cũ, có lẽ tôi đã mang nóp lộn ngược về khu chờ một phân công khác. Và, tuy nói rằng chuyện ân nghĩa giữa tôi và Hai Cũ giảm độ khắng, song, nếu không có chuyện ân nghĩa đó chắc chắn tôi có mặt ở Đại đội 3 không thể quá một tuần trăng.

Hai Cũ nâng niu tình bạn theo nghĩa truyền thống cô đặc nhất. Bạn của Hai Cũ là những người “dám chết sống” với anh, từ thuở anh và họ còn lông bông ăn quán ngủ đình. Anh và họ gắn bó trên ánh đuốc lập lòa của những đêm mà độ dài của một đời người đôi khi chỉ bằng khoảng cách giữa một gốc cây nơi họ tụ tập đến một ngôi nhà nào đó cửa đóng then gài. Thông cảm giữa anh và họ hình thành theo tiếng nổ pháo tre, súng đạn, tiếng kêu gia chủ nộp của, tiếng trống mõ hồi một náo loạn một vùng.

Mọi cái đều mang vẻ huyền hoặc nhưng một lời thề phải xem nặng hơn cả mạng sống của mình. Thật ra, họ chưa bao giờ “giết ngựa trắng tế trời, mổ trâu đen tế đất, lấy nắm đất thay nhang, lấy thần linh làm chứng, lạy nhau ba lạy”, như họ thấy trên sân khấu. Thề nghĩa là “ừ”. Thề nghĩa là lặng lẽ cùng mài con dao. Thề nghĩa là hớp chung chén rượu. Với Hai Cũ, đó là một sùng tín.

Hai Cũ bây giờ không phải là Hai Cũ mà tôi gặp trên xe lửa hay tại dốc Bà Bành. Tuy nhiên, nếu bảo rằng một Hai Cũ khi bắt đầu nói một số danh từ thường thức - anh không thích nói, song dần dà, anh cũng quen miệng - như “tập thể”, “nhân dân” là Hai Cũ đã bỏ xác phàm, hệt Chung Vô Diệm trong tuồng hát, lớp vứt bỏ cái xác “mặt xanh nanh bạc” hóa thân đẹp như tiên, thì còn hơi sớm. Hai Cũ từ giã quá khứ khác kẻ rùng mình khi khỏi bệnh giang mai, hít hà “một lần tởn tới già”! Điều rõ rệt là Hai Cũ bây giờ khôn hơn - anh ta đã biết hạ đồn không thể bằng súng lửa. Anh say sưa tìm hiểu súng đạn, nghiền ngẫm cách sao đánh giặc cho ngon. Còn việc nhậu thịt chó đến nỗi bị Tay bao chữ “O” dường như Hai Cũ chưa chịu đó là điều tối kỵ.

Tôi dám đánh cuộc bằng cái đầu của tôi về chữ “trung” trong Hai Cũ. Tất nhiên, còn lâu Hai Cũ mới vẽ lên chữ “trung” đủ nét, song Hai Cũ ghét tề lính do ghét tề lính, Hai Cũ ghét Tây. Cái lô-gíc đơn sơ ấy giúp Hai Cũ vạch được một lằn ranh tô đậm phân chia hai trận tuyến, đồng thời, nó chưa đủ sức đáp anh khỏi lao đao giữa những làn nhỏ li ti hoa mắt mà không phải bao giờ anh cũng tỉnh táo tránh bị quẩn chân.

Cũng cần nói một lần để không phải nhắc lại: Hai Cũ rất mực thương vợ thương con. Khi lang bạt đầu đường xó chợ cũng như lúc thét ra lửa, anh chưa làm điều gì để vợ anh phải cằn nhằn.

Hai Cũ thích một gia đình kiểu của anh. Gia đình sầm uất, đông vui, có anh có em - những người “chí cốt” chơi bời xả láng.

Ở đơn vị, đã diễn tới diễn lui hàng chục, hàng trăm lần cái tình trạng sau đây - đối với tôi, một chính trị viên, thật lỡ khóc lỡ cười. Một người bạn có việc cần anh, câu đầu tiên sẽ là:

- Mầy còn nhớ hồi tụi mình quánh nhà con mẹ chủ nhà máy xay không? Vui quá trời!

Vậy là Hai Cũ dẹp qua một bên các điều đã bàn cặn kẽ với nhau trong Ban chỉ huy. Anh chỉ dặn:

- Đừng nhắc chuyện lục lâm nữa, mắc cỡ thấy mẹ.

Hai Cũ không muốn nhắc chuyện lục lâm - anh thành thật xấu hổ - song anh không giũ nó như người ta giũ bụi bám vào quần áo.

Bây giờ, Hai Cũ biết rằng khẩu lệnh “xung phong” không phải thay cho khẩu lệnh “nhào vô!” và “rút lui” không thoát từ tiếng “buồm!”. Nhưng mọi cái mới thâm nhập vào anh chỉ bén rễ khi do chính anh chọn lựa...