← Quay lại trang sách

chín

Tôi đến Đại đội 3 đã thấy Tư Chắc Cà Đao ở đó.

Toàn đơn vị tôn y là thầy - Thầy Tư. Thày Tư Chắc Cà Đao không nằm trong tầng thứ thầy giáo, thầy kiện, thầy thuốc - kể cả thầy thuốc chó. Cũng không thuộc hạng thầy tuồng, thầy chùa. Ngay thầy hù vẫn còn kèo trên y. Y tương đương với thầy bói, thầy pháp. Tư Chắc Cà Đao, không ai rõ tên thật của y, là thầy nghề võ kiêm thầy bùa, thầy ngải. Y vốn là “sư phụ” của Hai Cũ, thuở Hai Cũ còn làm lơ xe Biên Hòa - Sài Gòn. Y muốn xăm bùa cho Hai Cũ, song Hai Cũ không tin bùa ngải, càng không muốn đưa lưng cho thiên hạ chém thử coi có quả hễ “vô bùa” rồi thì da chắc như da voi không. Hai Cũ thực tình ái mộ nghề roi, nghề quờn của Tư Chắc Cà Đao.

“Một ngày cũng thầy, nửa chữ cũng thầy”, Hai Cũ ăn ở với Tư Chắc Cà Đao theo câu anh học lóm đó. Bởi vậy, ngay khi chị Hai cắng đắng với anh - hồi chị chưa đẻ thằng Mới - về những cái vuốt ve, nựng nịu của y với chị, Hai Cũ chỉ dặn vợ là mỗi khi anh vắng nhà thì qua hàng xóm ngủ nhờ, còn tuyệt không hé răng cự Tư Chắc Cà Đao một lời.

Sau khi đánh đồn thua lỗ, Hai Cũ rút về Long Thành. Tư Chắc Cà Đao mò tới, cùng mươi thủ hạ. Trong lúc mình như vậy mà thầy không bỏ, thiệt tình nghĩa rất trượng - Hai Cũ đón Tư Chắc Cà Đao trong tâm trạng ấy. Ban đầu, Tư Chắc Cà Đao giúp anh vài chuyện vặt về quản trị, khi binh tướng đông đông rồi, y tự phong làm đại đội phó, lãnh cái gánh - sau này mới có chữ hậu cần, còn hồi đó kêu bằng tiếp tế.

Tư Chắc Cà Đao đóng trong một ngôi nhà lai, đẹp nhứt vùng, ngoài có tường bao bọc. Tôi đến thăm y vào buổi trưa.

Người lính gác bảo tôi đợi ngoài cổng, chờ hỏi “thầy Tư” chịu tiếp hay không. Tư Chắc Cà Đao chịu tiếp tôi.

Chủ nhà dọn sang dãy nhà ngang - xưa là kho - nhường hết ngôi nhà chính cho Tư Chắc Cà Đao.

Tôi bắt gặp cái nhìn vừa lạnh nhạt, vừa căm thù, vừa khinh thị của chủ nhà khi tôi bước lên thềm, mặc dù ông ta xá tôi một xá thật sâu. Tôi hiểu lý do của cái nhìn đó khi qua gian giữa, vạch tấm màn nhung đồ sộ, vào căn phòng lung linh hai ngọn bạch lạp cực to. Tư Chắc Cà Đao không tiếp tôi ở tràng kỷ. Hẳn là y muốn vỗ mặt tôi bằng cảnh trí mờ mờ ảo ảo này. Tư Chắc Cà Đao xếp bằng trên bộ ván gõ trải chiếu hoa, sau lưng có gối tựa. Trên tường, la liệt các đạo bùa vẽ trên giấy hồng đơn. Hai vệ sĩ lực lưỡng, mặt có cô hòn, thủ hai khẩu tiểu liên Tôm-xông chặn ngay lối ra vào.

Tư Chắc Cà Đao không ngước nhìn tôi. Y đang cắm đầu trước mâm cơm, hai tay láng mỡ cầm đùi gà quay. Mâm cơm vun chùn: thịt bò bít-tết, lươn um, cá lóc nướng trui... Một chai Mạc-ten vừa khui.

Hai cô gái lăng xăng: bới cơm, rót rượu. Hai cô gái khác phe phảy quạt cho Tư Chắc Cà Đao. Cả bốn cô đều trẻ, đẹp... Họ bối rối trước tôi. Có lẽ họ thấy tôi để lộ sự bất bình về tất cả những điều tại đây.

Tư Chắc Cà Đao tuổi chắc xấp xỉ Hai Cũ thôi. Tướng y roi roi môi dày, da ngăm đen. Y quấn chiếc xà-rông sặc sỡ, ở trần, bày ra các dấu xăm: cánh tay thì bùa rằn ri, còn ngực và bụng thì hình một phụ nữ trần truồng, phần dưới của bức hình tiếp liền phần dưới bụng lông lá đen sì của Tư Chắc Cà Đao.

Nhai xong đùi gà, Tư Chắc Cà Đao mới hỏi tôi - vẫn không ngó lên:

- Nghe “chú học trò” về ba bốn bữa, bữa nay mới tới. Bộ tính ngồi ở “buya-rô” đợi tôi chào trước sao chớ!

Y cầm đùi gà khác, sau khi nốc một ly rượu.

Đó là câu mở đầu cuộc gặp gỡ giữa đại đội phó và chính trị viên. Đó cũng là câu kết thúc. Bởi tôi không thể đứng mãi nhìn y ăn - mà y còn ăn lâu...

Lính cũ, lính mới trong đại đội phần đông không ưa Tư Chắc Cà Đao. Họ nói y đủ thứ chuyện. Hai Cũ nghe qua rồi bỏ. Khi tôi nhận nhiệm vụ, nhiều người gặp tôi, tố y. Chung quanh chuyện làm trời, “vua con”, ăn nhậu, gái...

Tôi lựa dịp, bàn với Hai Cũ. Tôi muốn đưa Tư Chắc Cà Đao ra khỏi đại đội, cho y trở lại đời sống của y: dạy võ kiếm cơm. Hai Cũ không bao giờ cãi tôi, song cũng không bao giờ nghe tôi.

Ngay đến chuyện dễ nhất là rút số lính chung quanh Tư Chắc Cà Đao về các trung đội đang thiếu, chỉ nên để ở với y mươi người thôi - y có cả hơn 40 người - Hai Cũ cũng chẳng chịu.

Tôi hết sức khổ tâm. Cái an ủi tôi lại là Hai Cũ: Tôi biết, anh khổ tâm không kém tôi.

Làm thế nào xếp đặt cho được đại đội khi Tư Chắc Cà Đao sầm sầm ngồi đó? Nào có riêng Tư Chắc Cà Đao. Còn tay Tám Kỷ nữa.

Hội nghị cốt cán của đại đội - tôi là Đảng viên duy nhất, thêm hai đoàn viên thanh niên cứu quốc và năm người (Hai Cũ được xem như cốt cán, song bàn chuyện Tư Chắc Cà Đao thì chúng tôi không mời anh) - lâm vô ngõ bí. Cũng có anh em tính mạnh tay, ý kiến đó không được số đông tán thành, vì vướng Hai Cũ.

Một lần, Hai Cũ giận tôi. Tôi yêu cầu mọi thu xuất của đại đội đều phải được toàn ban chỉ huy xem xét. Hai Cũ lửng lơ:

- Thì đã có thầy Tư lo rồi!

Tôi nhất quyết không chịu. Tôi không giao số tiền của khu bộ phát cho Tư Chắc Cà Đao. Từ trước, Tư Chắc Cà Đao giữ số tiền ấy và tự ý xài. Lính trong đại đội, ăn khô ròng rã, còn y và thủ hạ thì quăng tiền như quăng giấy lộn.

Hai Cũ giận tôi không lâu. Một hôm, anh nói với tôi:

- Thôi thì cũng làm từ từ với ổng... Hôm qua, tui gặp ổng ăn cơm, tội quá... Không có con gà nào hết!

Rồi Hai Cũ khóc hu hu. Hai Cũ khóc khi thầy ăn cơm không có thịt gà gợi tôi nhớ các sách đã đọc: mâm cơm với con gà và ve rượu là tiêu biểu cho lễ thầy trò.

Còn anh - tôi với anh ăn chung - hễ dọn cái gì khác lính một chút là bị anh rầy.

“Chánh sách thắt hầu bao” của tôi nhanh chóng thu kết quả. Tư Chắc Cà Đao giảm quyền lực ngay lập tức trong đại đội.

Một hôm, đồng chí Bí thư Huyện ủy Long Thành gọi tối đến. Về công khai, người ta biết đồng chí là ông Năm, Chủ nhiệm Việt Minh, một người - quê Hải Phòng - tóc bạc như cước, điềm đạm, vốn là tù chung thân ở Côn Lôn được giải phóng sau cách mạng. Đồng chí muốn nghe tình hình của đại đội. Sau khi nghe, đồng chí thông báo là chấp hành chỉ thị của Tỉnh ủy quận Long Thành bổ sung cho Đại đội 3 một tiểu đội tuyển chọn từ địa phương quân, trong đó, có một đảng viên và số còn lại là đoàn viên hoặc sắp sửa vào đoàn. Thật là một sự chi viện vô giá! Anh Năm lưu ý tôi về Tư Chắc Cà Đao.

Đồng chí Hứng - người đảng viên thứ hai của Đại đội - vừa nhận nhiệm vụ - đã đưa tôi xem một bảng kê dài xọc các thứ - đường, sữa, trứng, thịt cá, thuốc hút, rượu, trà, cà-phê... - và một lá đơn của một chủ quán xin thanh toán. Đó là nợ ấp Lẩm của Tư Chắc Cà Đao. Với chúng tôi, bỏ ra mấy ngàn bạc cho vụ ăn nhậu lu bù như vậy là không thể được. Tôi báo cho chủ quán: ai mua thì người ấy trả tiền! Tôi còn rao khắp vùng - quán xá cũng như dân chúng - cấm bộ đội mua chịu! Tôi ký một công văn cảnh cáo nghiêm khắc trung đội của Tư Chắc Cà Đao, phổ biến khắp đại đội.

Tôi nói cho Hai Cũ. Anh vùng vằng: Bởi ta không cấp tiền, họ phải tìm phương sống! Hai Cũ nói liều mạng. Tư Chắc Cà Đao còn làm khó dễ chúng tôi không biết tới bao giờ, nếu không có một vụ lớn lao xảy ra.

Hôm đó địa phương làm lễ Độc lập. Chúng tôi huy động toàn đại đội dự.

Hằng nghìn người đứng trong vườn cao-su, băng cờ rực rỡ. Sau mết-tinh có diễn kịch.

Phần chính thức sắp xong. Theo chương trình, tôi sẽ nói chuyện. Ý tứ bài nói, tôi đã bản thảo với Hai Cũ. Tôi sẽ thay mặt cho đơn vị xin lỗi đồng bào về các thứ không hay không đẹp do đại đội gây ra với dân và với địa phương. Hai Cũ đồng tình:

- Phải xin lỗi chớ! Đáng lý tui xin lỗi, mà tui ăn nói lập dập...

Hai tiếng nổ dữ dội, khi tôi sắp lên diễn đàn. Chỗ nổ cách địa điềm mết-tinh không xa, ngay cuối xóm. Từ chỗ mết-tinh chúng tôi trông rõ cả bựng khói. Lựu đạn nổ, tôi xác định như vậy. Cuộc mết-tinh xôn xao. Không phải biệt kích. Không phải địch... Chúng tôi và huyện, xã đã bố trí chu đáo, biệt kích nào lọt vô được.

Đồng chí chủ tịch mết-tinh yêu cầu mọi người bình tĩnh. Hai Cũ rời đoàn chủ tịch, nói với tôi:

- Chú lên diễn đàn... Để tôi đi coi.

Từ đó cho đến dứt lễ, anh không trở lại. Nhưng, dù đang nói, tôi vẫn chú ý một hiện tượng lạ: đại đội rút dần ra khỏi mết-tinh bố trí vòng ngoài, và tiểu đội Hứng ứng trực phía trước phía sau lễ đài, súng cầm tay. Tôi hiểu rằng có cái gì nghiêm trọng đây.

Tôi vừa xuống lễ đài, Hứng báo liền. Hai lính của Tư Chắc Cà Đao làm nổ lựu đạn, một chết tại trận, một bị thương nặng đang được quân y cấp cứu song khó thoát.

- Vậy thôi sao? - Tôi vừa đi vừa hỏi Hứng. Nếu chỉ có vậy, tại sao cả đại đội triển khai trong tư thế sẵn sàng nổ súng.

Hứng thuật lại: Hai Cũ ra đến nơi, nghe người lính bị thương nói cái gì đó, lập tức ra lệnh cho Hứng:

- Chú rút tiểu đội mới bổ sung, áp sát vô chỗ ông chánh trị viên đang nói. Hễ thấy có gì lạ là thì phải ra tay trước. Để mắt xa xa một chút!

- “Có gì lạ” là sao? - Hứng hỏi.

- Là... giả tỷ như tên nào tính bắn ông chánh trị viên hay quăng lựu đạn lên lễ đài!

Hai Cũ cũng ra lịnh cho các trung đội khác tuần phòng nghiêm ngặt.

Tôi đến quân y. Người lính vừa tắt thở. Hai Cũ cúi đầu trước thi thể anh, nước mắt ròng ròng. Tôi hiểu không hoàn toàn đúng cái khóc của Hai Cũ. Tôi đinh ninh anh khóc vì hai người lính chết - anh thường khóc mỗi khi có người của đơn vị hy sinh. Hơn nữa, hai người lính này là bà con bên vợ anh, cùng vào “Vệ binh ông Hai Cũ” ngay ngày thành lập.

Nhưng, khi tôi và anh ngồi chờ ở sở chỉ huy, anh nói rõ ngọn ngành.

Tại hiện trường, Hai Cũ hơi lạ về sức công phá của lựu đạn. Đó là loại chạm nổ mà đơn vị chúng tôi vừa nhận của khu, cơ số ít, chỉ phân phối cho bảo vệ ban chỉ huy. Anh nghiên cứu thêm khẩu Tôm-xông, đã lên cò, mở khóa an toàn. Giữa lúc cả đơn vị dự mết-tinh, hai người này đi đâu mà lận lựu đạn trong túi, lên cò súng?

Anh linh cảm, ra lệnh bố trí bảo vệ cuộc mết-tinh và riêng tôi.

Tại quân y, anh bảo y sĩ tìm hết cách làm cho người bị thương tỉnh lại. Người bị thương kể:

- Tư Chắc Cà Đao giao cho hai người - lính “ruột” của y - đi ám sát tôi. Một trong hai tên sẽ dùng khẩu Tôm-xông bắn lên lễ đài vào lúc tôi nói. Còn lựu đạn thì tên kia thủ, khi cần, để giải vây. Lãnh mạng, hai tên nốc một trận rượu khẩm đừ. Chúng chân thấp chân cao ra vườn cao-su.

Đến cuối xóm, chúng gặp con gà mái dẫn con đi ăn. Thế là hai tên rượt bắt. Chúng tính hễ xong vụ cắt cổ “gà biết nói” - ám chỉ tôi - thì xé phay gà “cục cục” nhậu chặp thứ hai. Trong lúc rượt gà, lựu đạn trong túi rớt, nổ. Thằng giữ lựu đạn bị thương, thằng mang súng lại chết liền.

Hai Cũ không giấu giếm. Trong nước mắt, anh dành phần khóc thầy. Anh hỏi tôi: “Nên làm gì Tư Chắc Cà Đao?”. Tôi trả lời xụi lơ: “Còn y đâu đây mà làm hay không làm gì y!”.

Quả đúng. Nghe tin cuộc ám sát không thành, Tư Chắc Cà Đao đã khăn gói trốn mất.

Cái hy vọng cuối cùng về nghĩa thầy trò của Hai Cũ nằm trong cái chắc lưỡi của anh:

- Sợ quá, chạy gần gần thôi!

Tôi không muốn Hai Cũ rơi vào thế kẹt. Tôi nghĩ: Thằng cha này đầu Tây.