← Quay lại trang sách

mười

Tư Chắc Cà Đao bỏ trốn rồi, Hai Cũ phong Tám Kỷ làm đại đội phó. Nói là Hai Cũ phong cũng không đúng hẳn. Tôi muốn đồng chí Hứng làm đại đội phó, nhưng tham khảo anh Năm, bí thư huyện, anh bảo hãy thong thả. Theo ý anh, Hứng về đại đội chưa bao lâu tín nhiệm còn ít mà Đại đội 3 lại có nhiều “lão làng” - các lão xét nét cấp chỉ huy dữ lắm. Tôi sở dĩ “mần ăn” được vì là “thằng em kết nghĩa” của Hai Cũ. Thiếu lá bùa hộ mạng đó, Hứng sẽ vấp phản đối liền. Hai Cũ lạnh nhạt về đề nghị của tôi. Anh nói:

- Đánh giặc khác diễu binh. Diễu binh thì áo bỏ vô quần, nịt thắt chỉnh tề, chân bước “một hai” cho ăn nhịp. Còn đánh giặc, quần ống thấp ống cao cũng được, miễn có gan!

Hứng nổi bật trong đại đội còn nhiều xô bồ này từ bộ quần áo đến tác phong đúng điều lệnh của anh.

Hai Cũ nói thật. Anh thành kiến với Hứng. Song, anh chưa nói hết. Chịu cho Hứng làm đại đội phó tức là phá lệ. Hứng không thuộc số “hồi tụi mình”, chẳng lẽ tới bữa nhậu, toàn tán chuyện thời nay? Cái gan của Hứng thì anh nói vậy thôi, không phải anh coi rẻ Hứng. Chưa đánh chác trận nào làm sao biết gan ai to, gan ai nhỏ.

Tám Kỷ đương nhiên tự coi y là đại đội phó. Hai Cũ cũng đương nhiên cho y dự bàn công việc. Hai Cũ chưa lần nào gọi y họp, song lần họp nào có y thì Hai Cũ cứ coi như ban chỉ huy gồm ba người.

Thật ra, không riêng gì Tám Kỷ, trong “hồi tụi mình”, ai cũng có thể xề vô ban chỉ huy, cũng có thể nghe, cũng có thể chịu cái này, không chịu cái kia. Chuyện gia đình mà! Với người khác, tôi tống khứ dễ thôi, còn với Tám Kỷ, hơi khó. Khó vì người khác, tôi nói khéo, họ rút lui, còn Tám Kỷ, y nghe tôi như lá môn hứng nước. Y khoái chức đại đội phó hệt lân khoái pháo.

Cho nên, khi Hứng bảo tôi xin quyết định trên khu bộ, tôi chỉ cười: có hay không có quyết định, Tám Kỷ vẫn là đại đội phó.

Tám Kỷ là một trong những người bạn thân nhất của Hai Cũ. Chính y chỉ huy giải thoát Hai Cũ ở cầu Bình Lợi.

Mỗi lần Tám Kỷ muốn xin tiền, chỉ cần hỏi:

- Cái chỗ ngón tay của mầy còn nhức không?

Hai Cũ chết sống gì cũng thòi ra, dù phải lén lút tôi. Sau những lần như vậy, Hai Cũ ngồi thừ cả buổi. Hứng cho là Hai Cũ buồn vì quyền của anh bị cắt xén. Tôi hiểu không giống Hứng. Chính những khi Hai Cũ dàu dàu không nói không rằng cả buổi, tôi mừng cho anh.

Tám Kỷ trèo lên ghế đại đội phó chừng nửa tháng, tôi được Huyện ủy báo: Trên đường 15, gần Long Thành, ba hôm liền một nhóm lạ mặt, vận trây-di [i] lựa lúc công-voa có hộ tống qua khỏi, chận cướp các xe đi lẻ. Vụ lớn nhất là chúng đánh một xe mang dấu Hồng thập tự, lấy rất nhiều thuốc. Và, tiếp sau, chợ Long Thành tràn ngập đủ loại thuốc tây. Dư luận đồn: thuốc tuồn từ bưng biền.

Cứ cách vài ngày, tôi lại được thông báo: Hoặc xe chở sữa đặc, sô-cô-la, cà-phê hộp, hoặc xe chở thịt... Khi các xe hàng không đi lẻ nữa, thông báo cho biết: xe du lịch bị chận, mọi thứ bị lột sạch. Vẫn nhóm lạ mặt ấy - không quá bốn hoặc năm tên - vẫn bộ trây-di, vẫn trên đoạn đường ấy và vẫn từ phía Nam lộ 15 - tức là phía chúng tôi đóng quân.

Nghe thông báo riết, Hai Cũ tự ái:

- Bộ mấy ông Việt Minh huyện nghi Đại đội 3 ăn cướp sao chớ?

Anh tìm đồng chí Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến huyện và hai bên to tiếng.

Tôi không tán thành sự nóng nảy của anh, song tôi cho là bọn ngụy kiếm ăn như chúng vẫn thường kiếm ăn khắp nơi.

Cả anh lẫn tôi đều ngầy ngật về tin mới nhận được: Một xe du lịch không đỗ lại theo lịnh của bọn cướp, chúng bắn. Xe đâm vào gốc cây. Tất cả những người trên xe đều chết: Người đàn ông lái xe đập ngực trên tay lái, người đàn bà và ba đứa bé - lớn nhất lối 5 tuổi - chết vì bị đâm bằng dao găm. Và, bọn cướp - cũng bốn hay năm tên - lại vận quân phục Vệ quốc đoàn mới toanh.

Biết tối nghĩ đến Tám Kỷ, Hai Cũ đỡ cho va:

- Tám Kỷ có quân tướng gì trong tay đâu?

Khác Tư Chắc Cà Đao, Tám Kỷ chỉ giữ bên mình một tổ cận vệ. Va lại không trực tiếp chỉ huy trung đội nào cả. Tôi hơi phân vân: có thể bọn biệt kích hóa trang.

Dù sao địa phương cũng đặt dấu hỏi đối với chúng lôi. Tốt nhất, tóm bọn này. Hai Cũ và tôi giao cho Tám Kỷ và Hứng thay phiên đưa lính đi phục kích. Từ sở chỉ huy ra lộ, không tới sáu cây số. Ba giờ sáng, bộ đội phục ở ven lộ và chỉ rút về khi xế chiều.

Một tuần lễ yên ổn. Nhưng ngay sau hôm chúng tôi không ra lộ, một xe vận tải bị chận. Và hôm kế, chuyện động trời xảy ra: chiếc xe đò bị bắn lúc đang chạy với tốc độ cao. Hơn 20 người chết và gần 30 người bị thương - do xe lật và do trúng đạn. Xe bị cướp sạch. Hơn thế, vài thiếu nữ đi trên xe bị lôi vào ven rừng và bị làm nhục. Vẫn bộ quân phục Vệ quốc đoàn!

Chúng tôi tức ói máu. Hai Cũ đích thân dẫn quân đi phục kích. Anh dặn tôi chớ hé răng cho ai biết - tôi hiểu là anh muốn giấu cả Tám Kỷ. Anh không lấy lính các trung đội mà chỉ dùng đội bảo vệ của sở chỉ huy. Anh quyết “ăn thua đủ”, nên mang gạo, hăng-gô, võng, tăng theo.

Anh nằm rừng đúng mười ngày. Trong mười mầy đó, cả đơn vị tưởng anh đi hội nghị phân khu và trong mười ngày đó, con đường 15 như chảy qua một vùng an toàn nhất thế giới!

Nhưng, ngày thứ 11, khi anh vừa về, mặt phờ phạc, chưa cạo râu, súng lại nổ trên đường 15. Tôi nghĩ anh sẽ tất tả xách quân ra lộ. Nhưng không. Anh lầm lì tắm giặt, cạo râu.

Ba ngày liền, anh đến từng trung đội, la cà với lính, hoặc lôi vào rừng, mang khẩu súng săn. Ai cũng đinh ninh anh cảm thấy bất lực, nên đi đây đi đó cho khuây khỏa.

Sáng ngày thứ tư giữa lúc chúng tôi ăn cơm, tiếng súng trên đường 15 vọng đến. Anh buông đũa tập họp đội bảo vệ. Đội bảo vệ phải sưu sách mỗi ngày, chỉ ở nhà có một tổ. Anh cho gọi Tám Kỷ. Tám Kỷ đi tuần tra chưa về.

Anh lập tức cùng hai cận vệ, dẫn tổ bảo vệ, chạy vụt đi.

Tôi cũng lật đật gọi cận vệ của tôi, hai chúng tôi đuổi theo anh.

Tôi tưởng anh chạy ra lộ 15. Nhưng, vừa băng qua khỏi cánh đồng cạnh sở chỉ huy, anh rẽ ngoặt vào một khu vườn hoang, cỏ hôi cao lút đầu.

Chúng tôi vạch cỏ đến cuối vườn, đụng một hầm trú ẩn nằm kín đáo dưới gốc một cây bình bát. Hầm trú ẩn của chủ nhà xây bằng vật liệu chắc, nhưng không dùng đã lâu, rêu phủ bốn phía. Tuy nhiên, một số dấu vết cho thấy vẫn có người lai vãng. Anh chỉ cho tôi cỏ hôi bị đạp và cả dấu giày ba ta còn in khá rõ trên một đống bùn nhão do chèn hen đùn lên. Tận sâu bên trong hầm, vài ống thuốc vỡ, vài nhãn “Nét cà-phê” chôn chưa kỹ.

Ý của Hai Cũ đã rõ. Vậy là máy hôm nay anh lùng sục và tìm ra chỗ này.

Bỗng, một trong ba người bảo vệ, nhân lúc chúng tôi mải quan sát cái hầm, lặng lẽ rút đi. Hai Cũ - có lẽ không rời hắn ta một giây - gọi giật:

- Thằng kia! Đi đâu?

Tên bảo vệ lúng túng. Hai Cũ bước tới trước mặt hắn.

- Đứa nào? Hả? Đứa nào hãm hiếp?

Đường gân trên cằm anh nổi vồng.

- Đứa nào? Đứa nào đâm con nít?

Tôi biết sắp có biến, nên ra hiệu cho người cận vệ của tôi lưu ý hai bảo vệ kia và luôn hai cận vệ của Hai Cũ. Tay tôi đặt lên báng súng Ru-lô, bước lùi xa một chút.

- Dạ!... - Tên bảo vệ mặt không còn chút máu - Dạ... không phải em.

- Không phải mầy? Vậy, cái gì kìa...

Hai Cũ trỏ đôi giày ba-ta của hắn. Anh chồm tới tát mạnh. Tên bảo vệ bật ngửa. Trong lúc bật ngửa, hắn lên cò khẩu mút Anh cái rốp. Tôi vung tay trước gã.

Một trong hai cận vệ của Hai Cũ tì tay vào cò khẩu Ni-mas mà họng thì chĩa đúng lưng anh. Nhưng, thằng đó làm sao lẹ bằng người cận vệ của tôi.

Chú thích

[i] Quần áo binh lính dã chiến thời Pháp