← Quay lại trang sách

mười một

Tám Kỷ quỷ quyệt. Va không tổ chức đông đứa mà chọn lựa bọn thật chắc. Va cũng không lấy những người ở các trung đội. Năm tên trong đội bảo vệ, một tên cận vệ của Hai Cũ, ba tên bảo vệ của va - vừa được tin cậy hàng đầu, vừa tiếp cận với ban chỉ huy. Mười đứa thôi. Mười đứa có uống máu và thề độc.

Va lại móc bọn Bảo an Long Thành. Hàng cướp được, bọn này đem bán, chia chác.

Tám Kỷ còn đi nước cờ cao: Va giả lính ngụy và Vệ quốc đoàn để làm ra vẻ có nhiều đám cướp. Vệ quốc đoàn cướp thì Tây ngán mà ta không tin, cho là biệt kích hóa trang. Ngụy cướp thì Tây không truy ráo riết mà ta thì không sức đâu ví thứ ngụy ăn cướp.

Bởi tiếp cận ban chỉ huy nên Tám Kỷ nắm chắc chúng tôi. Hai Cũ và Hứng vồ hụt chúng nó là vì vậy.

Nhưng, Tám Kỷ phạm sai lầm lớn. Va lo đối phó với tôi và Húng. Va đánh giá sai Hai Cũ. Theo va, Hai Cũ chẳng để ý gì đến chuyện trộm cướp - nghề của Hai Cũ mà. Va đâu dè chính Hai Cũ tìm ra cả thùng ca-cao, cà-phê chôn đằng sau nhà Tám Kỷ. Va cũng đâu dè Hai Cũ hiểu rõ giờ giấc hành động của bọn va: lợi dụng tuần tra, sưu sách để ra lộ. Và, va hoàn toàn không thể ngờ những gì đến với va, sau hôm chúng tôi ở trong vườn hoang. Hôm đó, Tám Kỷ đánh xong một xe chở thuốc lá, rượu, trên đường về nơi giấu. Nhưng, tiếng súng báo cho chúng biết là khu vườn hoang đã lộ. Chúng để tạm của ăn cướp giữa rừng, tản về nơi đóng quân.

Những đứa bị bắt đều khai. Chúng đổ cho Tám Kỷ. Hai Cũ mau lẹ đồng ý bắt Tám Kỷ mà không cần hỏi qua số “hồi tụi mình”. Nhưng, anh bảo tôi ký giấy bắt, chớ anh không ký.

Tám Kỷ bị bắt giữa lúc say mèm. Dưới giường va, lăn lóc hai vỏ chai Uýt-ki. Còn hai chai nguyên va nhét trong kẹt vách - rượu va cướp sáng nay. Xét nhà Tám Kỷ, Hứng tịch thu khá nhiều đồng hồ đeo tay, dây chuyền, cà rá, riêng bạc xanh, cũng gần chục ngàn.

Hai Cũ không phản đối ý kiến của tôi: thiết lập tòa án binh xét xử nội vụ. Cáo trạng do tôi soạn, Hứng sẽ là chánh án, mời Ủy ban, Công an huyện, xã, Huyện đội và Xã đội, các đoàn thể và đồng bào dự. Tối mai xử.

Tôi không bàn với anh về mức độ phạt. Song, Hai Cũ dặn mua ngay một quan tài - anh còn nhấn mạnh: quan tài loại tốt.

Anh chỉ đề nghị với tôi: hai chai rượu tịch thu ở nhà Tám Kỷ nên để cho Tám Kỷ uống...

Xong, anh đóng cửa, ra lịnh không tiếp bất kỳ ai, kể cả tôi. Anh nằm cả buổi chiều hôm đó và suốt ngày hôm sau.

Tòa xử trong ngôi đình, cách sở chỉ huy vài trăm thước. Trước khi khai mạc, tôi gặp anh. Dù có lịnh anh, song lính cận vệ của anh không dám ngăn tôi.

Anh nằm rũ rượi trên ván, mặt mũi hốc hác. Râu tua tủa. Đôi mắt sâu của anh ánh lên màu tối xót xa. Anh bỏ ăn.

Tôi thấy thương anh vô cùng. Hay là giảm án cho Tám Kỷ? Tám Kỷ bị xử bắn thì như một phần của Hai Cũ bị xử bắn. Tôi biết vậy.

- Chú chưa tin tôi hay sao?

Hai Cũ nghe ý định của tôi, hỏi lại, giọng nghẹn ngào.

- Chú muốn tôi đội quần đi trong quận Long Thành thì cứ giảm án!

Tôi cám ơn anh, rồi đứng lên. Tôi không mời anh dự phiên tòa và tôi tin anh sẽ chẳng đến đó.

Bước ra nhà sau, tôi định dặn các đồng chí phục vụ nấu cho anh món gì đó. Tôi thấy họ lặng lẽ nhổ lông một con gà. Chắc Hai Cũ thèm ăn...

Ngôi đình chật ních. Có cả một số đồng bào thị trấn do huyện mời.

Sau hàng ghế các đồng chí địa phương là mấy hàng ghế dành cho số kỳ cựu của đại đội, bạn bè của bị can.

Lễ chào cờ xong, bảo vệ dẫn các bị can vào. Tất cả tám đứa, bảy đứa đi vững. Tám Kỷ thì phải có người dìu. Va còn say.

Hứng, chánh án, nói lý đo phiên lòa. Anh nhấn mạnh rằng đây là tòa án binh mở ngoài mặt trận, bị can không có quyền kháng cáo và bản án có hiệu lực ngay khi tòa tuyên án. Anh giới thiệu tôi - ủy viên công tố - đọc bản buộc tội.

Bản buộc tội khá dài. Người dự chăm chú theo dõi. Các bị can, trừ Tám Kỷ, hết nhìn nhau, nhìn Tám Kỷ rồi nhìn lén chúng tôi. Bọn chúng thừa hiểu bản buộc tội sẽ dẫn chúng ra cái cọc đã cắm sẵn trên gò mả cạnh đình, các lỗ huyệt cũng đào sẵn. Tuy nhiên, chúng chưa mất hy vọng. Tám Kỷ còn say. Phải làm cho va tỉnh dậy. Va tỉnh dậy, chưa chắc tòa dám đụng đến va. Tôi hiểu tâm trạng bọn này qua cái lay, cái gọi vào tai, cái véo Tám Kỷ. Tám Kỷ ngã trên ghế - chúng tôi buộc phải cho va ngồi - mắt nhắm nghiền, mồm há hốc, nước dãi chảy dài theo khóe miệng. Thỉnh thoảng va rên.

Tôi thuật cái vụ đánh cướp trên đường 15, phân tích và quy kết. Bản buộc tội dành một phần nói về Tám Kỷ. Tôi nói rằng Hai Cũ xem Tám Kỷ là bạn chí thân, lẽ ra Tám Kỷ đừng làm cho Hai Cũ đau lòng. Mang Tám Kỷ xét xử là việc cực chẳng đã bởi không còn cách nào khác.

Tám Kỷ tỉnh dần. Va bật đầu ngơ ngác nhìn cái quang cảnh mà va hết sức lạ lùng. Rồi, va cũng hiểu ra. Va ngó trân trân cái còng, ngó sang đồng bọn. Khi tôi nói về tình của Hai Cũ đối với va, va cố tìm kiếm Hai Cũ trong ngôi đình.

Kết thúc bản luận tội, tôi xin tòa dùng hình phạt tối đa. “Hình phạt tối đa” - từ ngữ ấy lúc bấy giờ chưa thông dụng. Tám đứa có vẻ bàng quan với nó.

Chánh án hỏi chúng nghe rõ lời buộc tội của ủy viên công tố đồng thời là chính trị viên đại đội không? Trừ Tám Kỷ, bảy đứa trả lời là có. Tòa lại hỏi chúng có điều gì đính chính không, bản buộc tội có điểm nào không đúng không? Cũng trừ Tám Kỷ, bảy đứa lắc đầu. Tôi hiểu chúng tôi chưa phải đã kể ra đủ tội ác của bọn chúng.

Tám Kỷ đã hết say hẳn. Va lấy lại tư thế. Trước hết, va khinh khỉnh nhìn Hứng và tôi. Rồi y nghênh ngang trông ngược, trông xuôi, thậm chí nheo mắt đùa cợt với số người quen mà va chợt thấy. Thái độ của Tám Kỷ “dựng trán” bọn hộ hạ. Bảy tên kia cũng câng câng cúi đầu, mặt vút vắt, thậm chí xì xồ với nhau cái gì đó và cùng cười phá.

Hứng cố nén giận, anh tuyên bố dõng dạc:

- Bị can đã không một lời đính chánh, tòa xem như bản buộc tội của công tố ủy viên là chính xác. Tòa mời các vị lãnh đạo địa phương, đồng bào và đồng đội của bị can phát biểu.

Ngoài tiếng “khè” của ngọn măng-xông, không ai xin nói. Đồng bào sợ thù oán, các đồng chí địa phương thì thấy bản buộc tội cũng tạm được - các đồng chí đã góp nhiều ý kiến với tôi. Tôi chỉ chờ bạn bè của Tám Kỷ. Khác với Tám Kỷ, họ ủ rũ. Có lẽ họ không ngờ Tám Kỷ tồi tệ đến như vậy.

- Rồi chưa? Hạ màn sớm... Tụi tao còn về nhậu chớ!

Tám Kỷ đứng dậy. Câu nói xấc xược của va lọt vào giữa không khí thù địch với bọn va, chỉ làm cho va thêm bất lợi. Nhưng, Tám Kỷ làm gì hiểu được điều đó.

Va quay phắt lại, ngó số bạn của va.

- Tụi bây là đồ chết nhát! Thằng Thắng, thằng Hứng mới giáo đầu tuồng, bọn bây đã thót dái lên cổ... Từ rày đừng kêu bạn bè gì hết.

Và đứng chàng hảng, trỏ vào mặt tôi và Hứng:

- Tao cướp của tụi ở thành mắc mớ gì mà hai đứa mầy đem tao ra đây xài xể? Những đứa tao giết, tao hiếp là cha, là mẹ hai đứa mầy hả?

Hứng hết kiềm chế nổi, anh hét:

- Đây là tòa án binh của đại đội...

Tám Kỷ cướp lời anh:

- Tòa án! Tòa án cái con c...! Tao không biết đại đội, tiểu đội nào ráo... Đây là gánh do Hai Cũ với tụi tao gom từng đứa, lượm từng cây súng lập ra... Hồi đó, hai đứa bây chun ở lỗ nào?

Tôi sôi máu. Không “nốc ao”thằng ba đá này trước tòa thì Đại đội 3 rã ngay. Tôi đang suy tính.

Tám Kỷ được thể, càng rống tợn:

- Tao không biết kháng chiến kháng chung, Việt Minh Việt mung gì ráo! Lính Hai Cũ là ăn cướp, ăn cướp hoài... Này, mở cổng lẹ, kẻo Hai Cũ bửa đầu hai đứa bây bằng búa!

Tôi toan gọi bảo vệ lôi chúng đi, mặc dù tòa chưa tuyên án. Bắn mẹ nó cho rồi! Nhưng, nơi cửa, một bóng cao lồng lộng theo ánh đèn, trải dài cả cái sân đình rộng. Hai Cũ đứng đó tự hồi nào.

Ngôi đình xôn xao. Một thoáng lo ngại trên mặt các đồng chí địa phương. Một thoáng hy vọng trên mặt các bạn bè của Tám Kỷ.

Hai Cũ lững thững bước vào đình.

- Hai Cũ, mầy có thấy mấy thằng chó nó hành hạ bạn mày ra thân thể như vầy không?

Tám Kỷ đưa còng cho Hai Cũ xem.

Hai Cũ đưa tay lên. Chết rồi! Tôi than thầm. Anh mà bộp cho Tám Kỷ một bộp tai đổ hào quang thì sau đó, bản án chỉ còn dùng để nhúm lửa! Cả ngôi đình lắng đọng và tôi là người duy nhất tại đây hiểu cái tích tắc định đoạt này.

Hai Cũ vụt bỏ tay xuống, cùng lúc với tiếng thả phào của tôi mà tôi chắc người nào nghe không thể hiểu nổi lý do. Tôi muốn nhảy xuống ôm hôn anh.

- Tám Kỷ nói bậy... Trước khi chết, người ta nói lời khôn. Còn Tám Kỷ, nó không thể nói một lời nghe lọt lỗ tai...

Vậy là Hai Cũ đứng bên ngoài từ lâu.

Anh nói chậm rãi như anh bước vào. Ai cũng chờ Hai Cũ nói thêm, song, anh đã chậm rãi bước ra...

Tám Kỷ và cả bọn mất thần. Tám Kỷ kêu cứu:

- Hai Cũ! Hai Cũ!...

Tòa đã có thể làm phận sự của mình như một tòa án thực sự. Bốn bản án tử hình, nếu kể luôn hai đứa đã bị bắn chết là sáu. Bản án sẽ được thi hành trong vòng hai tiếng đồng hồ nữa.

Tám Kỷ - tái xanh - từ chối không tắm rửa, thay quần áo. Ba đứa kia thì khóc sướt mướt, than trời trách đất, chửi Tám Kỷ đủ điều.

Đơn vị làm cho chúng một mâm cơm có rượu. Nhưng không đứa nào ngó tới.

Trong khi chờ đợi, tôi về cơ quan. Ngang nhà Hai Cũ, tôi thấy nhiều người tụ tập trước sân và nghe Hai Cũ thét giọng đầy nước mắt từ trong nhà:

- Thằng Cũ nầy không phản bạn!... Các người đừng nói nữa. Trời ơi!

Hai Cũ trở lại đình. Anh lặng lẽ đến bên Tám Kỷ. Cặp môi khô khốc của Tám Kỷ chợt nhuận máu. Nhưng đôi mắt vừa lóe lên đã tắt ngấm liền: người cận vệ của Hai Cũ bày trước mặt va chiếc mâm, trên đặt đĩa thịt gà xé phay, tô cháo và chai rượu. Hai Cũ xẹt quẹt đốt thẻ nhang. Tay anh run, nên xẹt mãi quẹt mới cháy. Anh kê nắm nhang vào lửa và cũng phải hồi lâu nhang mới bén. Từng que nhang lặp cặp trên tay anh. Rồi đến hai cây đèn cầy. Ann cắm nhang vào cái lon cát và cắm đèn lên khu chén.

Người ta bao quanh anh, thành kính đến mức huyền bí. Ngay tôi cũng thấy rờn rợn.

- Mầy ăn thịt gà đi... Tao tế sống mầy đó! - Anh nói rất khẽ, rất thân tình.

- Vong hồn mầy có oán trách tao, tao chịu. Tao có lỗi đã không cứu mầy. Mà, lỗi đó còn nhẹ. Lỗi nặng của tao là để mầy rơi vô chỗ vô phương cứu. Không bắn mầy thì tao phải đi ra Long Thành đầu Tây. Mầy cũng biết, tao đâu thể nào đầu Tây được... Ăn đi... Gà giò... cháo ngọt lắm... Làm một hớp rượu nghen.

Anh rót hai chung. Tám Kỷ không giữ nổi chung rượu, rượu đổ hết. Hai Cũ nâng chung, ực.

Anh nhìn quanh:

- Đứa nào muốn đưa thẳng Kỷ thì vô uống với nó!

Đôi người rót rượu. Tay họ rã rời không kém gì tay Tám Kỷ.

- Cũ... Mầy ngó ngón tay mầy đi, Cũ!

Tám Kỷ thu hết sức tàn, phều phào. Nhưng Hai Cữ không còn ở đó. Anh lần vào bóng tối chập choạng. Cúi gục dưới gốc sao cao vút. Hai Cũ khóc - đôi vai động đậy như bị lay dữ dội.

Bốn tội nhân được khiêng đến bốn chiếc cọc. Người chúng đã mềm nhũn. Bốn lỗ huyệt còn bốc hơi đất ẩm, bốn quan tài mầu huyết dụ - một chiếc bằng gỗ vên vên có chạm hồi văn.

Hứng hỏi chúng có muốn bịt mắt không, không đứa nào đủ sức ú ớ.

Tiểu đội hành quyết đã dăng hàng ngang. Tiếng cò súng lên đồng loạt. Họ chờ lệnh của Hứng.

Hai Cũ rời bóng tối. Anh lừ đừ tiến lại Tám Kỷ.

Nước mắt vẫn chảy dài trên má anh, anh không chùi.

- Vợ con mầy, tao lo hết. Tao nói với con mầy là mầy trối: Đừng bắt chước mầy.

Giọng Hai Cũ như từ chốn xa xôi nào đó vọng về.

Tám Kỷ chợt tỉnh, khóc rống:

- Anh Hai ơi! Anh nỡ nào để tụi nó bắn bạn của anh?

Hai Cũ lắc đầu:

- Tám Kỷ! Có sức chơi có sức chịu... Còn một phút chót nầy, mầy nên tỏ ra mầy không phải là thằng hèn...

Hai Cũ lại lừ đừ bước về phía tiểu đội hành quyết. Anh móc trong túi một mảnh vải sô, chậm rãi vấn quanh đầu:

- Tao để tang cho mầy đó Tám! Tao quấn khăn tang bằng bàn tay mất một ngón ở cầu Bình Lợi!... Mầy nói phải, không nên để người khác xử mầy...

Anh bảo một chiến sĩ trong đội hành quyết:

- Em đưa súng cho qua!

Hai Cũ đứng vào hàng, theo lệnh của Hứng, từ từ cất nòng súng lên, tay không có lấy một xao động nhỏ...