← Quay lại trang sách

mười ba

Trong chiến dịch Trảng Bom giữa năm 1951, phương án tác chiến của Đại đội 3 được thông qua, sau nhiều lần tranh cãi trong cán bộ.

Phân khu Duyên Hải đã giải thể - ông ủy viên chính trị bị huyền chức và công việc thẩm tra về ông tiến hành mấy năm liền. Có nhiều dấu hiệu nghiêm trọng. Ông ta từng ở tù. Mọi cái bắt đầu trong thời gian ông ta ở tù. Khó mà biết ông ta ở tù bao lâu. Bấy giờ, những năm giặc khủng bố trắng, sau Xô-viết Nghệ Tĩnh, ông ta - một đảng viên có cương vị cấp huyện - bị bắt. Người ta gặp ông ở Côn Lôn. Rồi, ông ta bặt tăm. Trong phong trào Đông Dương Đại hội, ông ta không hoạt động ở quê mà ở Sài Gòn, với một bí danh. Chánh phủ Mặt trận Bình dân bên Pháp đổ, ông ta lại bị bắt. Người ta lại gặp ông ở trại tập trung Tà Lài, Bà Rá, rồi Côn Lôn. Ông bị giam mỗi nơi một ít. Và, trong sửa soạn khởi nghĩa Nam Kỳ, ông cũng xốc vác một công tác gì đó. Ông bị bắt sát ngày cuộc khởi nghĩa, vẫn như trước, Tây giam ông lưu động.

Năm 1945, ông từ một đồn điền cao-su, hô hào cướp chính quyền. Ông nghiễm nhiên là cán bộ lãnh đạo tỉnh và sau đó, được chỉ định làm ủy viên chính trị phân khu, lúc Bảy Viễn làm phân khu trưởng.

Hội tụ các dữ kiện, Sở Công an Nam Bộ tìm thấy một làn chỉ đen xuyên suốt những năm hoạt động của ông ta. Nơi nào ông ta công tác, cơ sở trước sau gì cũng vỡ. Nơi nào Tây giam ông ta, tổ chức bí mật trong tù lần lượt bị phá. Trong vụ tảo thanh bọn phản động Bảy Viễn, nhiều oan án - có cái hết sức vô lý - được ghi nhận.

Dĩ nhiên, đó là lô-gích của Sở Công an. Còn phải thêm tài liệu nữa. Còn phải tìm đọc hồ sơ của ông ta trong cơ quan mật thám. Còn phải chờ xác minh của vùng ông ta hoạt động. Trong hoàn cảnh kháng chiến đi lại khó khăn, chờ một xác minh ở một huyện Hà Tĩnh - về một chuyện 15 năm trước - không thể nhanh được.

Hai Cũ hiểu rằng chẳng qua là vấn đề thời gian, chớ mọi cái đã thật rõ ràng.

Đại đội 3 - đại đội độc lập - bây giờ trực thuộc Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Đông. Ban chỉ huy đại đội thay đổi. Tôi, cán bộ tiểu đoàn, ở lại với đại đội cho tới xong chiến dịch. Hứng được đề bạt làm chính trị viên và Út Giảng làm đại đội phó.

Quan hệ giữa Hai Cũ và Hứng tốt hơn, song tính khí hai người khó giữ cho họ ăn ở với nhau như bát nước đầy.

Hứng phàn nàn Hai Cũ: “Ổng “độc tài” quá cỡ, chuyện công mà ổng đụng đâu ừ đó, không bàn thảo với ai hết, nói xin lỗi - ổng vừa vén quần đái vừa hạ lịnh, mà toàn lịnh “độc địa”: hốt tụi thám báo này đẩy cái lô-cốt kia... Khu cho mấy cây mọt-chê, ổng xách ra đồn bắn thử, chẳng đo đạc ngắm nghía, báo hại đám cấy chạy thiếu điều đứt ruột, may mà không ai bị miểng. Làm ăn kiểu ổng, có ngày cả đại đội vô trại giáo hóa nằm”.

Hai Cũ cũng có không ít cớ cự nự Hứng.

- Chú Hứng mà thiếu “hội ý” thì khỏi ăn cơm. Bữa nhậu mà chú cũng điều vô chương trình nghị sự. Thời buổi giặc giã, phải lanh tay lẹ mắt chớ đâu cà rịch cà tang như vậy được.

Hứng cho Hai Cũ lề mề, thiếu tác phong quân sự. Hai Cũ cho Hứng tối ngày bù đầu về những thứ “lặt vặt”: lính ăn mặc làm sao, nói năng làm sao... Hứng phạt cậu nào tập hợp trong hàng mà còn cười. Hai Cũ đứng trước hàng quân có khi quần vắt cổ.

Đồng chí cấp dưỡng của ban chỉ huy đại đội đứng tuổi, góa vợ. Một hôm, con gái của đồng chí đưa mẹ chồng lên thăm. Xuôi gia gặp nhau. Cậu bảo vệ của Hứng hỏi đồng chí cấp dưỡng:

- Bố già ơi! Tôi đố bố già cái gì rờ mát tay hơn hết?

Đồng chí cấp dưỡng ngơ ngác. Cậu ta bô bô:

- Nhứt rún chị nuôi, nhì đuôi rắn hổ!

Hứng xụ mặt. Cậu bảo vệ bị phạt đứng nghiêm trước cột cờ suốt buổi.

Hai Cũ không chịu: - Ừ, thì con nít nói bậy, rầy la là đủ, gì dữ vậy!

- Chú Hứng hễ mở miệng là tuôn danh từ “ra-phan”. Giống y cô cán hộ “dân vận” nói với bà má chiến sĩ: Má ơi, con “nắm vững” cái nồi, mà chưa biết “địa điểm” hũ gạo... Bà má chỉ cho cô hũ gạo. Cô hỏi: Má ơi, xúc gạo bằng “phương tiện” gì...

Hứng đâu chịu thua:

- Ai đời, giữa hội nghị toàn huyện bàn đánh tụi Bảo an lấn chiếm, ổng nói rùm: cái thứ mã tà tét đó mà chư vị nhợn tới nhợn lui. Tui nói thiệt, tui vừa gãi... vừa đánh, cũng rượt tụi nó són cứt!... Chịu nổi ổng không? - Hứng rầu Hai Cũ thưa như cái rổ sảo - May cho ổng bộ quần áo ka-ki - ổng có bộ nào ra hồn đâu - ông xỏ vô có một bận, hôm sau, không thấy, hỏi ổng, ổng trả lời tỉnh rụi: Thằng nhỏ mới vô lính, ở trần, tao cho rồi! Hễ ai than với ổng một tiếng thì muốn lột cái gì cứ lột: đồng bồ, súng lục, dép râu, vải dù. Phần ổng, không một xu dính túi, ăn một tán đường cũng ke re, mà ổng ký lịnh xuất, khi năm chục, khi một trăm... Nào cho anh A gởi về nuôi con, nào cho anh B mua hòm chôn bà già... Mấy tay xấu bu quanh ổng xin “bồi dưỡng”.

Hai Cũ chê Hứng keo kiệt:

- Làng tôi có lão hương cả tên Ngô Văn Công [i], va kén rể kỳ đời: ai cưới con gái va mà tốn ít nhứt thì va gả. Mấy cậu thi nhau khoe cái hà tiện của mình. Va lắc đầu: Tốn lắm! Tốn lắm! Sau rốt còn ba cậu. Cậu thứ nhứt trình “kế hoạch”: mời hai họ ăn nồi cơm nếp nhão với thịt mỡ, mỗi người giỏi lắm ăn một muỗng, ngán tới óc o! Va bác: Ý! Nấu tới một nồi cơm nếp, còn thịt mỡ nữa... Bộ mầy in được giấy bạc sao chớ? Cậu ta cố nói thêm: nồi cơm nếp lưng một chút thôi, mình phơi khô, để dành. Còn mỡ thì thắng, có mất đi đâu? Va cự chỏi lỏi: Mầy là thằng phá gia chi tử. Mầy coi, cơm nếp nở đầy nồi, đem phơi, nó teo nhách, phải dại không? Còn mỡ, nhà tao kỵ nó, ăn mỡ hại gan lắm!

Cậu thứ hai trình: mời hai họ ăn kẹo mạch nha. Trẻ còn răng, kẹo dính, ăn cả giờ chưa hết một lóng tay. Già rụng răng, có môn mấp bậy chớ nhai gì được. Va hơi xiêu lòng: Thằng này cao kế! Tuy vậy, một tô kẹo mạch nha đâu ít tiền. Cậu thứ ba đến muộn. Cậu ôm một con gà mái đẻ với một miếng bánh tráng nướng. Vô tới cửa ngõ, cậu đi thụt lui - Trời đất! Va kêu hãi hùng - Mầy làm đám cưới bằng một con gà mái đẻ! Chắc mầy là con Chú Hỏa.. Cậu rể tương lai thưa: Tía hiểu lầm rồi! Hai họ ăn một cái bánh tráng là quá sang, ăn thế nào cũng rơi vãi, con gà mái lượm chỗ rơi vãi, có phải lợi không? Va khoái chí - Giỏi, mầy là một nhà phát minh cỡ lớn! Mà tại sao mầy vô nhà tao lại đi thụt lui? Cậu trả lời: Ấy, mỗi lần xây trở tốn hao sức lực, con tính hễ tía không gả thì con đi về, khỏi mất công quay lưng.

Hai Cũ cười đắc thắng, bảo Hứng: - Chừng nào đến làng, tôi dắt chú Hứng tới - Va còn đứa con gái nữa!

Hứng - nhỏ hơn tôi vài tuổi - vào đời đồng thời với Cách mạng Tháng Tám. Với anh, chỉ có một cuộc sống - cuộc sống kháng chiến. Anh rời lưng trâu và cầm liền súng. Chân lý đến với anh từ những buổi học tập những trang sách báo những công văn. Bộ đội, sáng và chiều phải chào cờ. Hừng sáng phải tuần tra. Đêm phải gác. Sáng phải tập thể dục. Chiều phải hội ý, có việc hay không có việc đều phải hội ý răng rắc! Thời dụng biểu đâu vào đó. Áo phải bỏ vô quần, thây kệ, áo bà ba cũng vậy... Hứng nhìn Hai Cũ - người tiêu biểu cho đại đội - phá vỡ điều lệnh (anh cho là “phá vỡ”) với bao nhiêu là uất ức!

Hai Cũ đi vào cách mạng khi đã có những năm tháng ngoài đời. “Ngoài đời” của Hai Cũ gồ ghề ra sao, chúng ta đã biết. Thật ra, mọi cái đều bình thường khi Hai Cũ còn bé. Anh ở một vùng đất gò trọc, ngoài cỏ may, không loại cây nào mọc nổi, kể cả đào lộ hột. Cha anh cạo mủ, mẹ anh lượm hột cao-su. Lên bảy, Hai Cũ tập sự cu-li trong sở: gỡ mủ đất, làm cỏ... Lớn hơn một chút, anh lái xe - cha mẹ anh mừng đến nỗi cúng ông Địa một con gà dịp anh được nhận chân phụ lái xe chở mủ. Nhưng, một khi cầm vô-lăng rồi, Hai Cũ muốn bay nhảy. Anh bỏ sở, xin làm cho một hãng xe đò chạy đường Biên Hòa -Sài Gòn. Anh sống với nghề sửa máy, nghễ “lơ” - đôi khi cũng cầm tay lái - được vài năm. Trong vài năm đó, Hai Cũ giao du với nhiều hạng người trong xã hội. Anh sanh sứa học nghề võ và bắt đầu cho rằng sự an phận của cha mẹ anh là không đúng. Bên cạnh một xã hội lềnh lềnh, tuần tự mà cha mẹ anh cho là phần số - trời kêu ai nấy dạ - anh còn thấy một xã hội khác, luật lệ của nó xây dựng trên mỗi một chữ: dám làm. Anh thử và thành công ngay. Vụ cai tổng On đóng trăn anh như là giọt nước làm tràn ly nước. Anh bỏ nghề lơ, xông thẳng vào nghề giật dọc. Thời cuộc rối ren; Tây và Nhật, tay sai Tây và tay sai Nhật, chiến tranh, Đồng minh bắn phá, tình trạng suy đồi chung khắp đây đó... gợi cho anh ý nghĩ nâng cái nhóm giật dọc của anh thành một đảng cướp. Anh tự lý giải: chưa hẳn đánh cướp đã là tệ lậu nhất, còn bao nhiêu thứ đáng nguyền rủa thập bội, tỷ như tề, lính, cho vay cắt cổ, đi buôn “nhứt bổn vạn lợi”, chứa điếm, mở sòng. Hơn thế, Hai Cũ thấy rõ rệt mình bỗng tự do và được kính trọng hơn khi mình là ông Hai Cũ, chính đảng.

Anh chưa bao giờ suy tính xem: nếu Việt Minh không dậy, cái gì sẽ xảy ra với anh? Làm vương làm tướng hay dừng chân ở một đảng cướp - tất nhiên, với điều kiện không bị xử tử, ở tù rục xương hay bị bắn đổ ruột.

Đó là giả định, chớ Việt Minh đã dậy rồi. Anh theo Việt Minh. Theo Việt Minh vì “ham vui”. Trong quan niệm của anh, theo Việt Minh là sự kế tục hợp lý con đường anh đã chọn. Theo Việt Minh, “anh thỏa chí bình sanh”... Những thứ: đồng đảng, súng... hồi nào phải lén lút, bây giờ nghiễm nhiên “danh chánh ngôn thuận”. Và, cứ vậy, anh rấn tới. Anh đinh ninh chẳng bao giờ anh đổi thay cách nhìn cuộc đời. Thế nhưng cuộc đời đã đổi thay và anh không rõ anh thôi “ham vui” và bắt đầu “khoái” kháng chiến từ cái mốc nào của một chuỗi biến động chung của đất nước và riêng bản thân anh.

Anh cười cợt cái mà anh cho là gò bó.

Hứng cười cợt cái mà Hứng cho là thiếu kỷ cương.

Tuy nhiên, cả hai cùng gặp nhau ở một tụ điểm:

Hứng công nhận Hai Cũ ham đánh giặc và đánh giặc giỏi. Hai Cũ không có chỗ nào chê trách Hứng về hướng đó.

Bởi vậy, dù cho mỗi sáng, Hứng đứng trước đại đội điều khiển tập thể dục, với khẩu hiệu: hàng dọc bên trái quay, tập thở, một, hai, một.... còn Hai Cũ thì bét bét sau hè, bái tổ rồi xuống tấn, đánh một bài “Mai hoa quyền” - hai người, sau đó, ngồi chung với nhau trên một tấm đệm, bản đồ trải rộng trước mặt.

Công lao của Út Giảng lớn biết mấy! Tôi dám báo cáo lên phân liên khu tôi đã có thể yên tâm rời Đại Đội 3 chính là vì có Út Giảng. Anh thuộc số “hồi tụi mình”, cùng dự trận cứu Hai Cũ ở cầu Bình Lợi, Hai Cũ không thương anh bằng Tám Kỷ, anh không phải loại “có máu mặt” - song bù lại, Hai Cũ nể anh. Anh vừa gan dạ - với Hai Cũ, đây là đề thi số một - vừa biết tính toán, làm cái gì cùng lật mặt nọ mặt kia chớ không “a thần phủ”, sống rất giản dị - có chút đỉnh văn hóa - học lớp nhì. Anh vào cách mạng y như Hai Cũ, song hiểu việc phải trái sớm hơn Hai Cũ. Mỗi lần nhớ lời khuyên về Tư Chắc Cà Đao, Tám Kỷ - anh khuyên Hai Cũ “siết bù lon” mấy tay Trần Đoàn lão tổ kia nếu anh thiệt bụng thương họ - Hai Cũ đâm ra ngán Út Giảng:

- Cùng thời trong làng trộm cướp, sao thằng cha nầy sáng dạ hết biết.

Út Giảng hiểu mặt tốt và chưa tốt của Hai Cũ anh cũng hiểu như vậy về Hứng.

Trước khi đơn vị chuyển từ ven lộ 15 lên ven lộ 1, Huyện ủy Long Thành làm lễ kết nạp Út Giảng. Tôi và Hứng giới thiệu anh vào Đảng.

Tôi bàn với Út Giảng nên báo cho Hai Cũ tin này, trước khi làm lễ. Tôi và Hứng là đảng viên. Hai Cũ không có ý kiến gì. Chúng tôi “ngoại đạo” đối với gánh Hai Cũ. Còn Út Giảng, cật ruột của Hai Cũ, vô Đảng mà không nói. Hai Cũ dễ nghĩ bậy - hoặc cho chúng tôi gài “lính kín” trong người thân cận anh hoặc cho Út Giảng “phản”.

Nghe Út Giảng, Hai Cũ ngồi im khá lâu. Út Giảng đâm hoảng. Va mà lắc đầu một cái thì rối.

Lát sau, Hai Cũ mới thủng thỉnh hỏi:

- Mầy không vô Đảng được không?

Út Giảng càng quýnh. Hỏi giọng này là va hoác ra rồi! Anh phân giải với Hai Cũ: vì anh xin vô Đảng, các đồng chí thấy được nên giới thiệu, kết nạp.

- Tao biết!... - Hai Cũ nói, vẫn thủng thỉnh - Bộ mầy tưởng tao “Huất Trì” hoài hoài sao? Tao muốn hỏi mầy: thiếu gì chỗ xin vô mà mầy không xin, nhè xin vô Đảng Cộng Sản?

Út Giảng chưa hiểu ý Hai Cũ. Anh lại phân giải một hồi nữa: tính chất của Đảng, vai trò của đảng viên...

- Mầy cứ diễn thuyết với tao! Tao biết... Tao hỏi mầy vậy chớ mầy xin vào Đảng mà mầy đã liệu sức chưa? - Hai Cũ ngó thẳng Út Giảng.

- Làm cộng sản khó lắm!

Hai Cũ kết luận.

Liền đó. Huyện ủy kết nạp Út Giảng.

Chú thích:

[i] Ngô công là con rết.