← Quay lại trang sách

mười bốn

Sở dĩ phải bàn tới bàn lui phương án tác chiến vì cái đồn Gò Xoài bẹo gan Hai Cũ. Đó là cái đồn năm xưa anh nã súng lửa “chọc lét” nó và bị nó đá giò lái đến đỗi anh sém tiêu mạng, phải lủi về đám mía với mỗi cái quần xà lỏn. Bọn lính xưa kia bao chữ “O” anh chắc không còn ở đó, song cái đồn vẫn là cái đồn - ngạo mạn với bức tường dầy cộm như mời mọc Hai Cũ thử húc đầu vô lần nữa. Không nện cho nó tơi bời thì cái tức như bò đá năm xưa chưa tan và Hai Cũ còn mặt mũi nào nhìn dân Trảng Bom.

Hai Cũ bị cái đồn cuốn hút, bị vụ “rửa thù tiết hận” ám ảnh khi anh vừa đặt chân lên vùng đất quen thuộc này. Anh cất công “chăm sóc” nó. Vòng ngoài cửa đồn, sau vài hôm, anh đã thuộc làu như lòng bàn tay anh. Đồn tọa lạc trên một gò cao, từ bìa vườn cao-su đến nó bằng hai khoảng cột dây thép, hai mặt đồn ngó xuống cánh đồng, mặt kia day ngang con đường đá đỏ dẫn ra quốc lộ.

Đánh công kiên thì không ăn rồi. Hỏa khí của đại đội không đủ sức. Mà cường tập, cần một khối lượng thuốc nổ lớn, gần như không cách gì mang khối lượng thuốc nổ ấy sát đồn. Nơi xuất kích thuận lợi là vườn cao su lại bị ngăn cách với đồn bằng một dải đất trống, mà đồn ở vị trí cao, riêng khẩu đại liên mia-ra-đo đã khống chế một góc độ khá rộng.

Hai Cũ tìm phương thế khác. Hôm nào cũng vậy, vừa khuất mình là Hai Cũ biến mất và tờ mờ sáng mới về. Trong chu vi vài cây số quanh đồn, anh có thể kề tuồng bụng từng mô đất, vồng khoai lang, bờ mẫu. Anh không cần bản đồ, vẫn có thể kể vanh vách đâu có gốc điều, đâu có cần vọt, nhà nào tề lính, nhà nào dân làm ăn. Về cái món tên người trong xóm, anh y viên chánh lục bộ sở tại!

Tất cả cán bộ tiểu, trung đội đều phải bò theo anh, trần truồng như nhộng, dưới ánh sao...

Anh nắm giờ giấc chào cờ, điểm danh, đổi gác, thả rong của tụi lính đồn y anh là đồn trưởng.

Anh đòi đánh đồn theo một phương án đơn giản: cho một tổ bí mật cắt rào, gỡ mìn, bắt cầu qua hào nước, kéo vào một cái thang dựng ở góc trống trải nhất của đồn, ngay lô-cốt, chỗ hoàn toàn bất ngờ. Lựa đêm thứ bảy hay chủ nhật, thằng lính gác lô-cốt, thằng lính gác mia-đo cũng vậy - chúng chơi bời suốt đêm, hễ vừa đổi gác là ôm súng ngủ ngồi, chớ thấy cái bóng đen đen của nó mà sợ, nó ngủ như chết. Chỉ cần một cậu nhặm lẹ bò lên, diệt thằng lính lô-cốt thật êm thì coi như đã mở xong đột phí khẩu cho cả trung đội lặng lẽ vào đồn. Từ đó, đã giũ sổ cái đồn! Theo phương án này mà không “ăn” thì cứ đem Hai Cũ ra sông Đồng Nai câu sấu!

Một phương án hay. Tôi nhận xét. Song, trên lại không giao Đại đội 3 đánh đồn Gò Xoài. Hai Cũ cố kêu nài, ban chỉ huy chiến dịch vẫn giao cho Đại đội 3 một nhiệm vụ khác. Hai Cũ thừa biết nhiệm vụ được giao quan trọng hơn đánh đồn nhiều song anh muốn chính tay anh kéo cờ đỏ sao vàng lên mia-ra-đo. Anh đề nghị Đại đội 3 được làm hai nhiệm vụ. Ban chỉ huy chiến dịch không thể đồng ý được. Hai Cũ đành đem hết tài liệu giao cho đơn vị bạn - được phân công đánh đồn Gò Xoài.

Hai Cũ là con người rộng rãi. Tuy tiếc hùi hụi trận đánh đồn, anh vẫn thiết tha mong cái đồn bị hạ. Cho nên anh trình bày cặn kẽ với ban chỉ huy đơn vị bạn các hiểu biết và suy nghĩ của anh. Anh còn hứa, nếu bạn thấy cần, Đại đội 3 sẽ biệt phái một tổ đã điều nghiên đồn Gò Xoài. Đồng chí cán bộ tiểu đoàn cám ơn anh, song, anh thấy đồng chí ấy không “mặn” về phương án của anh.

Thôi, phú thác cái đồn cho số phận nó, Hai Cũ bận lao vào công việc mới.

Lại xách cán bộ. mặt trời vừa lặn ra đi, khi gà gáy mấy hiệp mới nghe anh phủi chân leo lên ván, kéo chiếc chiếu đắp qua mình...

Đơn vị ém mí vườn cặp quốc lộ 1. Đại đội hạ quyết tâm đánh gần. Khi tiểu đội trung liên nổ súng thì có nghĩa là địch đã lọt vào trận địa phục kích, các khẩu đại liên bắn thật tập trung các mục tiêu được chỉ định và sau đó, toàn đại đội xung phong: lựu đạn, thủ pháo tiểu liên, lê... Hai Cũ trực tiếp nắm tiểu đội trung liên. Do Hai Cũ ứng tiếng giành chỗ gay go này, ban chỉ huy khó xử. Ban chỉ huy dự kiến Út Giảng chớ không phải Hai Cũ. Tôi thấy cặp mắt van nài đến độ đo đỏ của Hai Cũ, nên chiều anh. Để Hứng và Út Giảng bớt lo lắng, tôi nói rõ tôi sẽ cùng Hai Cũ quyết định tại chỗ. Hai Cũ vừa giãn cặp chân mày trước sự phân công mà anh ao ước, đã vội xụ mặt. Vậy là không phải anh mà tôi sẽ bắn phát súng mở màn.

Hiểu rõ điều đó - với Hai Cũ, hiểu cái gì bên trong anh không khó mấy, anh vụng nhất khoa giả đò - nên tôi trao đổi như vô tình:

- Tùy anh, nếu anh mở màn bằng súng lục cũng được, nếu anh quất cho tụi nó một tràng F. M. cũng được.

Hai Cũ, tất nhiên chọn khẩu F. M. Anh cười rạng rỡ.

Đại đội phục kích ở cả hai bên quốc lộ. Tiểu đội trung liên bố trí nơi địch bất ngờ nhất: ngôi nhà nền đúc của một thầy xu giàu có. Ngôi nhà trên dốc ngó xuống đường, tường bao ngoài cao ngang ngực - trên là chắn song sắt. Thật là chỗ trời dành cho bốn khẩu trung liên ra oai.

Ngôi nhà có một mảnh vườn chạy song song với lộ, nhưng cách lộ một đám ruộng nước. Không thể xung phong từ hướng này. Ở đây, đại đội bố trí hai khẩu Mắc-xim - tất cả tài sản của chúng tôi - một khẩu sẽ bắn vào giữa đội hình địch, một khẩu khóa đuôi.

Lực lượng chính của đại đội sẽ đánh từ phía bên kia lộ. Cặp lộ, phía bên kia, là một xóm nhà rải rác. Quân phải ém từ xa, trong vườn chuối.

Hai Cũ là tác giả chính của kế hoạch bố trí này. Anh trù bộ đội sẽ vào các nhà - có nhà dân, có nhà lính, có tốt, có xấu - đưa dân lánh sau hè. Bộ đội chỉ vào khi địch xuất hiện trên đường. Hoàn toàn có thề luồn bí mật theo đám chuối. Vấn đề chết sống là không để lộ từ khi ém cho đến khi luồn vào nhà. Lỡ một chủ nhà nào ra vườn sớm, phải giữ họ luôn.

Ém hai khẩu súng Mắc-xim thì đơn giản hơn. Mảnh vườn của tay thầy xu khá rộng, thông với con suối. Chịu khó nằm dưới suối - giấu súng kín trong đám mật cật.

Gay go nhất là đột nhập nhà thầy xu.

Hai Cũ nghĩ nát nước. Nhà nhiều chó. Nó sủa um lên, một chút, giặc biết liền. Thực tế, qua khỏi nhà này, đã bắt đầu phố xá của ngoại ô thị trấn Trảng Bom.

Lúc đầu, Hai Cũ định phát loa kêu dân giết chó. Tức trong bụng thì nghĩ ẩu vậy thôi, anh cũng biết phát loa coi như trình với Tây: chúng tao sắp nổ, hãy liệu hồn! Anh không loại trừ chuyện thuốc chó.

Giả tỷ, khóa mồm bày bẹc-giê xong, làm sao chủ nhà mở cửa khi trời chưa sáng? Chẳng lẽ xoay qua dộng cửa? Sau cùng, Hai Cũ đi đến nhà thầy xu theo con đường riêng.

Anh cùng hai cận vệ thủ súng ngắn, mặc áo quần sạch sẽ, lựa lúc vừa nhá nhem tức là lúc bọn lính tuần ngày xong việc, bọn tuần đêm chưa tới phiên, đạp ba chiếc xe đạp đường hoàng quẹo vô cổng nhà thầy xu. Anh bịa một lý do gì đó ngồi với chủ nhà, đợi lúc không ai ra đường nữa vì chiếc xe tuần tra đã bật pha chạy rề rề. Lúc đó, anh và hai cận vệ thò “bửu bối” ra: chìa súng uy hiếp cả nhà. Anh phải đợi lâu - tôi cùng các chiến sĩ vác trung liên, qua suối, vào cửa sau khi trăng mùng mười lặn. Bầy chó bị nhốt, im re.

Hôm nay, lễ “cát-to dui-dê” (14 tháng 7) - Quốc khánh Pháp - thiên hạ kêu là lễ Chánh chung. Bộ Tư lệnh quyết định mở chiến dịch vào ngày này - vừa là thời cơ vừa để dằn mặt giặc. Những trận càn quét liên miên hàng tháng trước đó cho phép tụi chỉ huy Tiểu khu Trảng Bom yên trí. Không có trận đụng độ nào được thông báo chiến sự ghi nhận là “quan trọng”. Chỉ có du kích bắn lẹt đẹt.

Tướng năm sao Đờ Lát sang Đông Dương cuối năm ngoái muốn chứng tỏ rằng quân đội Pháp làm chủ tình hình ngon lành, sau hơn nửa năm thực hiện kế hoạch của y, nên ra lịnh tổ chức quốc khánh thật to. Diễu binh, diễu hành, thể dục thể thao, kẹc-mết... Trảng Bom, trong vành đai giữ Sài Gòn, không lý không ăn chơi một trận! Bọn chỉ huy tại chỗ định dành hai ngày: sáng ngày 14 duyệt binh, gắn mề đay, đọc nhật lịnh... sương sương vậy, còn lại thả cửa cờ bạc, rượu chè, đĩ điếm.

Suốt đêm, Hai Cũ và tôi không ngủ. Tôi ở trên lầu với chủ nhà. Lúc đầu, họ sợ Hai Cũ bắn - tướng có cô hồn của anh xài chỗ này thật thần hiệu - Song, dần đà, họ biết Vệ quốc đoàn thứ thiệt, nên đâm rên rỉ, oán trách nhoi. Nhất là vợ thầy xu. Con mẹ mưu mô đáo để: phần mụ ta kêu trời, kêu đất chưa đã, mụ ngắt véo đứa con lên một khóc ré inh ỏi. Tôi cố công nói, con mẹ cố công bù lu bù loa. Nào mấy ông giết tụi tui. Tây nó xử tử ráo, phá sập nhà, nào lựa chỗ nào không lựa, nhè cái nhà này, hai vợ chồng đổ mồ hôi xót con mắt mấy chục năm mới cất nổi v.v...

Hai Cũ lên lầu. Anh mới tằng hắng một tiếng, vợ thầy xu nép vào góc giường. Anh dằn mạnh súng lên bàn:

- Biểu im mà cứ ngo ngoe hoài. Bộ bà tưởng hễ Tây kéo lại thì bà yên thân sao chớ? Tụi tui mang súng vô chợ để chơi sao chớ? Tây nó rành vợ chồng bà quá, nó dư biết vợ chồng bà là của tụi nó, bị sợ tụi tui nên không dám la... Bà nói vậy, nó nghe nó cưng bà dẩu lên. Còn bà nhóp nhép cái miệng thì Tây có đến cũng chỉ làm lễ truy điệu cho bà thổi... Tui bắn bây giờ!

Hai Cũ biểu tôi xuống lầu. Anh ngồi đó tới gà gáy hiệp chót.

Trời chưa sáng hẳn, song quốc lộ 1 đã rộn rịp xe ngựa, xe đò.

Chúng tôi bắt buộc chủ nhà ngồi ở cửa, có khách thì tiếp phía ngoài, đẩy đưa để khách rút lui cho mau. Tôi đảm bảo với chủ nhà hễ thấy Tây kéo xuống, họ sẽ tản ra sau vườn rồi dông vô chợ. Hai Cũ cẩn thận dặn họ gom góp thứ gì quý đem theo.

Mặt trời chưa mọc, đã nghe ai đó gọi cửa thầy xu đi uống cà-phê. Thầy xu trả lời trót lọt. Thầy xu cho biết, đó là thằng đội rờ-sẹt, tối không dám ngủ nhà, vừa từ đòn Gò Xoài về.

Nói chung, anh ta đuổi khéo cả chục người.

Cho đến một người. Một phụ nữ. Bà đi qua cổng - chúng tôi bảo chủ nhà mở cổng cho có vẻ bình thường - le te vô nhà. Chủ nhà hoảng quá, chận bà ta lại:

- Bữa nay lễ, buôn bán cái gì!

- Ậy! Lễ của Tây chớ lễ gì của mình. Máy trái mít của tôi đặt cọc, bữa nay tôi bẻ. Tôi xuống Biên Hòa chuyến xe đò sớm.

Bà phẹt một bãi cổ trầu, rồi xấn vô, chủ nhà kéo tay bà mà không kịp.

- Kỳ ôn, không? Thày xu bữa nay rượng lắm sao mà mới sáng sớm đã nắm tay đàn bà? Cô xu ơi!

Bà vừa nói trây vừa bước qua cửa ngăn nhà trên, với căn phòng phía trong. Phòng mờ mờ, bà chưa kịp nhìn chúng tôi đang đứng sát tường.

- Cô xu... úy! - Bà đã thấy - Cái gì vậy?

Bà ngó bốn khẩu trung liên, ngó chúng tôi, giật lùi:

- Mẹ cha ông nội ông ngoại bà cố ông sơ, ông sờ, ông sằm ơi!

Bà nói lịu.

- Bà kia! - Hai Cũ gọi bà.

Bà lặp lại: Bà kia!... Tiên nhơn từ đường, ủa, âm binh thần tướng, ủa, Phật bà Quan âm, ủa!

Bà nói huyên thuyên., lùi dần, lùi dần, vấp ngạch cửa, té cái đụi. Bà chống hai tay, lùi nữa, miệng lảm nhảm:

- Nam mô bổn sư Thích ca... Nhân cha và con, và thánh thần... Cao đài Tiên ông đại bồ tát ma ha tát!

- Bình tĩnh lại! - Tôi đỡ bà dậy. Tôi đã nhớ bà tuy bà thay đổi nhiều.

- Người ta, Việt Minh, không phải ma quỷ đâu. Bà biết Hai Cũ không? - Tôi hỏi.

- Hai Cũ? - Bà ngơ ngẩn một lúc... - Việt Minh hả?

Tôi gật đầu.

- Việt Minh vô đây chi?...

- Có chuyện... mà bà nhớ Hai Cũ không?

- Nhớ chớ... Hai Cũ bỏ nghề ăn cướp rồi mà!

- Bà nhớ cách nay 8 năm, Hai Cũ giựt cái đồng hồ của Nhựt trên xe lửa không?

- Sao không nhớ! - Giọng bà ta gần bình thường.

- Có một cậu nhỏ lấy cây đòn gánh của bà...

- Nhớ rồi! Giơ cây đòn gánh mà hổng dám đập...

- Phải... Cậu nhỏ đó là tôi đây...

- Vậy sao? Mèn đéc ơi! Nay lớn đại, ai mà nhớ mặt... Vợ con gì chưa?

Bà vụt quên mấy khẩu súng của chúng tôi.

- Hai Cũ là anh nầy. Nay là chỉ huy quân Việt Minh.

Tôi chỉ Hai Cũ cho bà. Bà nhìn Hai Cũ không chớp mắt:

- Đúng rồi... Già hơn, mà cặp chân mầy thì y như hồi đó... Ông Hai bình yên chớ?... Mà...

Tôi biết bà băn khoăn về sự có mặt đột ngột của chúng tôi ở đây. Hai Cũ nói chuyện với bà. Có lẽ bà hiểu, tuy không ừ hữ. Bà chịu ở lại trong nhà và chịu bỏ một chuyến buôn...

Từ xa, trên quốc lộ 1, có bóng người, cả tiếng xe. Hai Cũ và tôi theo dõi. Anh dựng khẩu F. M. sau cánh cửa. Chỉ cần một vài giây, anh đã có thể bấm cò.

- Xe có cờ! Chắc tụi quận Xuân Lộc.

Anh định cầm súng! Tôi níu anh lại.

- Không phải!

Một chiếc xe hơi cắm cờ Tây và cờ quẻ ly dẫn đầu đoàn người áo đỏ, áo vàng. Đó là cuộc đua xe...

Các “cua rơ” còng lưng đạp lên dốc, lần lượt qua. Hết tốp này đến tốp khác. Tôi thấy mắt Hai Cũ lóe một ánh lóe dữ tợn.

Lại một tốp khác xuất hiện. Đám chạy việt dã.

Tôi biết Hai Cũ khó nén trước sự khiêu khích này, giặc coi như trên đất Trảng Bom không có Hai Cũ. Anh nhổ một bãi nước bọt:

- Mẹ cha nó! Giống y chó tháng bảy...

Một xe dip từ thị trấn đỗ trước cổng. Chủ nhà khào khào:

- Quan một Phẩm!

Hai Cũ và tôi cũng giật nảy người. Trên xe bước xuống một sĩ quan - đeo lon thiếu úy, đôi kiếng đen to gọng, đầu chải úp mu rùa. Hai tên bảo vệ lăm lăm tiểu liên.

- Quan một Pô-lít-mi-li-te [i]... Ông vô đây bây giờ.

Hai Cũ lùi vào cửa. Hẳn là anh sẽ đón Phẩm bằng một loại FM. Tôi nép cạnh anh.

Không phải lúc để cho hồi ức về Phẩm sống dậy. Cái cấp bách nhất là làm sao bảo toàn trận đánh. Không có gì dễ hơn là xả vào ba đứa một băng đạn. Nhưng, sẽ chẳng còn màn khai hỏa của chiến dịch. Bao nhiêu công sức, hy vọng của quân khu tan ngay cùng với loạt đạn ấy.

Phẩm - béo hơn trước nhiều, cái bụng chướng to - vén đồng hồ. Nó nhún vai. Ý chừng còn quá sớm cho một công việc gì đó. Nó lê cái bụng lên bậc thềm. Tất cả những người có mặt trong nhà đều nín thở. Thằng khốn nạn này - tôi nghĩ - ngay giờ chết cũng làm lợi cho giặc!

- Bắt sống! - Hai Cũ bảo khẽ. Tôi không còn thấy cách nào tốt hơn. Phẩm qua cổng. Chừng mươi bước nữa thôi. Bỗng, đứa con chủ nhà vụt khóc ré. Tôi nghe vợ thày xu cự khẽ:

- Sao bà véo thằng nhỏ?

Bà bán mít không trả lời mà bước thật nhanh ra cửa.

- Quan đi chơi sớm! - Bà vồn vã với Phẩm.

- Ừ! Thầy xu có ở nhà không bà?

- Có chớ!... Mà quan đừng vô nhà... Thằng con của thày bị hạch chuột!

Phẩm đứng sựng:

- Dịch hạch? Pê-xtơ?

- Tui dốt, đâu biết pết, pót gì... Người ta nói hạch chuột...

Phẩm chỉ bước trong vài bước đã trở lại chỗ cũ.

Tôi mừng thầm. Song, Hai Cũ, mắt trừng trừng nhìn chiếc xe. Hơi thở anh dồn dập. Đây là lần đâu tôi gặp trạng thái gần giống động kinh của anh. Tôi nắm tay anh - bàn tay lạnh ngắt. Anh bám chặt cánh cửa.

Và, tôi hiểu liền. Một trong hai bảo vệ của Phẩm là Tư Chắc Cà Đao: Quả là “thầy” của Hai Cũ. Bấy lâu biệt tăm biệt tích, ai dè y theo Phẩm.

Thoạt đầu, tôi ngỡ Hai Cũ xúc động vì tình cảm cũ. Nhưng, một lúc, tôi rõ, sự xúc động của Hai Cũ không chỉ có bấy nhiêu: Tư Chắc Cà Đao khóm róm châm lửa cho Phẩm đốt. Y lột kê-pi, cúi người thấp, rón rén chìa ngọn lửa và cứ phải rê ngọn lửa mãi, vì Phẩm tuy đặt điếu thuốc lên môi rồi, vẫn đang nói gì đó. Hai Cũ như bị tát. Thầy của anh bần tiện đến mức đó! Tiếng ục ục trong cổ Hai Cũ như nồi súp-de sôi, khi Tư Chắc Cà Đao cười nhăn nhở nhìn làn khói thuốc do Phẩm phà ra. Bấy giờ, y mới thật yên tâm, đội lại kê-pi, đút quẹt vào túi, xốc khẩu tiểu liên, hai tay chống nạnh, hách dịch nhìn đoàn chạy việt dã hào hễn qua mặt.

- Ông Thạch Suôn... Ác lắm! Lắt vú không biết mấy cô rồi...

Bà bán mít nói vào tai chúng tôi. Mãi tới nay, tôi mới biết Tư Chắc Cà Đao là Thạch Suôn.

Hai Cũ tẩn mẩn nòng khẩu F.M. Mọi việc có thể hỏng, bây giờ không do Phẩm mà do Hai Cũ. Tôi gạt mạnh tay anh.

- Anh không được quyền! - Tôi lấy giọng nghiêm khắc.

- Tôi chết... chắc tôi chết... - Anh thở dốc.

Bà bán mít hoảng hồn, mằn theo tường, lùi dần.

Tôi gỡ tay Hai Cũ, song anh bám rất chặt khẩu súng.

Hú vía! Phẩm, Tư Chắc Cà Đao và cả bọn đã lên xe, xe chạy về hướng Gò Xoài.

- Biết đâu chút nữa, tụi nó không quay lại? Chừng đó anh sẽ bắn - Tôi an ủi Hai Cũ.

Mặt trời lên cao. Trên đường, bọn tề các làng xếp hàng, khiêng sắc thần đi vào thị trấn. Cờ phướn phấp phới. Có cả học trò lễ, nhạc công bao quanh sắc thần.

Chà! Toàn bọn ác ôn đầu sỏ các làng. Mấy khi chúng gom lại đông ken như vầy. Ngày thường, muốn bắt, muốn trị một đứa, trầy vi tróc vảy mà năm ăn năm thua, thậm chí tốn xương máu nữa. Nhìn Hai Cũ, tôi biết anh đang tưởng tượng tràng đạn của anh chém dọc chém ngang bọn này như chém chuối. Những chiếc khăn be, những chiếc áo dài nhiễu, những bộ râu cá chốt... Hai Cũ thâm thù tề tận xương. Mà bây giờ, anh phải nép vào kẹt cửa, nín khe! Khổ tâm quá chừng...

Đám tề qua, đến đám học trò. Chúng đi “một hai” giữa hàng rào cảnh sát. Hai Cũ chỉ thở dài...

Chốc chốc, Hai Cũ ngóng chừng mặt trời, mặt trời lên khỏi ngọn tre...

Sau học trò, đường vắng.

- Hay là hết rồi?

Hai Cù lo lắng hỏi tôi. Tôi không rõ, song đoán là đâu lẽ hết kỳ vậy...

Đúng, chưa hết. Đã thấy một tốp, vẻ lính tráng. Đó là bọn tàn binh - ở một trường huấn luyện nào đó. Rồi, bọn tự vệ.

Hai Cũ làm dấu với tôi: Anh muốn giục các thứ làng nhàng này qua cho rảnh.

Tiếng xe. Nhiều chiếc. Dẫn đầu là chiếc xe díp của Phẩm. Xe Phẩm chạy cách đội hình chừng vài chục thước. Đội hình gồm hai xe díp, một xe nồi đồng và năm GMC. Đoạn hậu có một xe díp.

Tất cả những người trong nhà được phép tản khỏi khu vực. Chúng tôi dặn bà bán mít hễ nghe súng nổ, cứ đến đồn gần nhất báo với chúng về chúng tôi, không sao cả. Chúng tôi cũng dặn chủ nhà như vậy. Hai Cũ dọa vợ chồng thầy xu: bà bán mít mà bị Tây tà làm khó dễ thì hai vợ chồng nên uống á phiện với dấm thanh ngay!

Chiếc xe díp của Phẩm nằm trong tầm bắn. Hai Cũ nâng khẩu FM, lấy tiêu cự... Tôi nhìn thật rõ mặt mũi và cả cái gạch trên cầu vai Phẩm. Tôi cũng thấy từng nét gương mặt vênh váo của Tư Chắc Cà Đao.

- Ngắm hai xe díp sau... - Tôi bảo Hai Cũ. Anh nhìn tôi, sửng sốt.

- Theo lệnh tôi! - Tôi dứt khoát - Một khẩu ngắm chiếc xe nồi đồng. Hai khẩu tập trung vào xe chở lính!

Hai Cũ lầm bầm. Nhất định anh chưởi tôi:

- Anh Hai chú ý hai xe díp. Đợi nó vượt khỏi ta sẽ bắn...

Hai Cũ tiếc rẻ chiếc xe của Phẩm, chỉ cần ngón tay anh khều nhẹ cò súng...

Loạt đạn trung liên của Hai Cũ thật chính xác. Miết cò hết một băng, anh lắp băng thứ hai. Và, với băng đạn thứ hai, Hai Cũ cắp khẩu FM như cắp khẩu tiểu liên, sống lưng đứng bên ngoài tường, nã vào chiếc xe nồi đồng mà loạt đạn vừa rồi của đồng chí xạ thủ chưa chuẩn xác, họng khẩu 12,7 đang chuyển về hướng chúng tôi, Hai Cũ đã buộc khẩu 12,7 bất động. Song anh bỗng lảo đảo, máu ướt đẫm nửa thân áo.

Đạn bắn Hai Cũ từ phía hàng hiên xéo với nơi chúng tôi phục kích. Tôi trông thấy cái kê-pi của Tư Chắc Cà Đao thấp thoáng giữa mấy gốc cột. Và chiếc xe díp của Phẩm đang đỗ lưng chừng dốc.

Một loạt đạn thứ hai nhắm vào Hai Cũ. Anh đã núp được bên trong tường. Tôi bắn - tất nhiên, bằng nhiên bằng Rulô - về hướng Tư Chắc Cà Đao.

Hai Cũ không ngó về hướng đó. Anh bận dán mắt nơi hình như Út Giảng đã ra lịnh xung phong, bên kia lộ, sau loạt đạn giòn của hai khẩu Mắc-xim.

- Xung phong!

Hai Cũ lao ra cổng, tay mặt buông thõng. Anh dùng tay trái rút khẩu Côn 12. Và, trong khi anh lao ra, tôi thấy cái kê-pi của Tư Chắc Cà Đao chường hẳn. Tôi định bắn yểm trợ cho anh, nhưng kìa, Hai Cũ đang day khâu Côn xước hàm răng trên của anh. Anh lên cò như thế đó.

Khẩu Côn từ tay Hai Cũ khẽ rung. Tư Chắc Cà Đao ngã vật, chiếc kê-pi từ từ rơi, thấm máu đỏ lòm...

Trên đường vào quân y, Hai Cũ chắt lưỡi hoài.

Tôi không muốn nhắc tới Tư Chắc Cà Đao. Chuyện đã qua, cho qua luôn.

- Phải chi bắt sống ông ta!

Tôi hiểu Hai Cũ nói như vậy là anh tiếc không tế sống được thầy mình như anh đã làm với Tám Kỷ.

Điều đó càng rõ hơn khi anh dặn Út Giảng:

- Nói cho lính biết khuyết điểm của tôi: ra trận mà tôi quên lên cò súng lục!

Tôi rời Đại đội 3 sau trận Gò Xoài. Hai Cũ nằm viện ngót hai tháng - xương cánh tay anh mẻ. Đơn vị bạn đánh không trôi đồn Gò Xoài nên vừa ra viện, Hai Cũ lăn vào kế hoạch của anh. Anh chỉ thêm bớt vài chi tiết. Đồn Gò Xoài bị hạ như anh muốn.

Bữa chia tay, tôi hỏi anh:

- Lâu rồi, sao không thấy anh tập võ buổi sáng mà tập thể dục?

Không ngờ câu hỏi bình thường của tôi lại khiến Hai Cũ bùi ngùi:

- Tự hậu, tui thề không xài một miếng võ nào học của Tư Chắc Cà Đao.

Chú thích:

[i] Cảnh sát quân đội