← Quay lại trang sách

mười bảy

Cửa Hàm Luông về đêm có vẻ hẹp lại. Bên kia, rặng dừa nước Ba Tri chập chờn một chớn đen lan tận giữa sông. Bầu trời lấm tấm sao, in trên dòng nước. Trăng mọc từ lâu, song nó chìm sau một khối mây đặc.

Sóng biển vỗ đều đặn. Từng lượn sóng hăm hở cuộn vào bờ, hết lượn nọ đến lượn kia, chúng tranh giành hôn bờ đất - hôn một thoáng rồi lại lùi ra - như trò đùa của trẻ thơ: ve vuốt con mèo, song không dám đặt tay lâu trên bộ lông mượt mà của nó.

Biển - vừa qua cơn động - ung dung trải dài đến nơi nào đó. Ban đêm, biển giấu cái bát ngát trong màu đùng đục.

Ngoài khơi, ngọn đèn hàng đáy vẽ những chấm đỏ hắt hiu.

Đêm và biển trôi lặng lẽ như vậy.

Bỗng, cả cửa sông vụt sáng. Ánh sáng rực lóa mắt từ ngọn đèn pha trên một chiếc tàu tuần, chầm chậm lướt đầu sóng. Bầy hải âu giựt mình, vỗ cánh xôn xao.

Đèn pha tắt, nhưng cửa sông bị đánh thức. Tàu tuần nổ máy, nặng nhọc lội ngược dòng Hàm Luông. Tiếng tàu nhỏ dần rồi mất hút. Vầng trăng mười bảy thoát đám mây đen, tưới màu bạc mơ màng, mát rượi lên cả mặt biển và ngọn cây.

Bây giờ, đến lượt chúng tôi: ba đống lửa đầu doi bập bùng. Đã mười mấy đêm liền, chúng tôi đốt lửa và chờ đợi. Chúng tôi chờ đợi những cái nháng quẹt “cọng tròn 6”. Đêm thứ nhất, thứ hai, biển bình yên. Âm ba của biển thanh thản mà chúng tôi lại bồn chồn. Thêm củi vào ba đống lửa. Bất cứ một động tĩnh nhỏ nào trên mặt biển cũng khiến tim chúng tôi đập mạnh. Thậm chí, khi mặt trời đã rựng, chúng tôi chưa chịu dụi lửa - biết đâu - thuyền đến muộn và ánh lửa tàn vẫn giúp cho họ biết đây là bến...

Ngóng đêm rồi ngóng ngày, dù đã được phổ biến: thuyền không bao giờ ghé ban ngày. Mà, cửa Hàm Luông ban ngày, thuyền đánh cá ra vô như chợ phiên.

Đêm thứ ba, thứ tư, biển động. Biển động không mạnh song đó là chuyện ít khi có vào mùa này, như người bản địa nhận xét. Sóng đánh cao, nước văng tận ba đống lửa. Gió đùa ngọn lửa đôi lúc vung tàn tựa pháo hoa. Và, đêm thứ năm, thứ sáu, thứ bảy... Quanh đống lửa, trăm thứ ước đoán: ngày khởi hành chậm... trục trặc máy... mất phương hướng... mắc cạn... Một ước đoán mà ai cũng tính tới song không ai nói ra: đụng giặc. Chúng tôi thừa hiểu tỷ lệ mỏng manh của sự an toàn trên mặt biển. Hải trình những hơn nghìn cây số, lênh đênh hằng mười ngày. Trong chúng tôi, đồng chí Thái từng công tác vận chuyển vũ khí đường biển trong kháng chiến chống Pháp. Tất nhiên, hồi đó, chỉ có ghe bầu. Song, Tuy Hòa vào Gò Công khác Hải Phòng vào đất Thạnh Phú này. Vả lại hải quân của Pháp sao mà so nổi với hải quân của hạm đội 7 và bọn tuần duyên ngụy hiện thời.

Cuộc đồng khởi cuối 1959 lật đổ trên một phạm vi rộng lớn bộ máy cai trị Mỹ -Diệm ở thôn xã. Trong một thời điểm nhất định, với đôi khẩu “quảnh tầm sào” kết hợp gậy, dao, tầm vông - và cả bập dừa nước giả súng - nhân dân Nam Bộ trói gô tề, dân vệ, hạ cờ ha sọc...

Tuy nhiên, tình hình không dậm chân mãi tại chỗ. Địch hoàn hồn, bắt đầu phản kích. Số vũ khí ít ỏi của ta khó mà đối chọi với các đội quân càn quét, bình định được trang bị “bén” hơn nhiều.

Súng, đó là dưỡng khí của cuộc cách mạng. Chúng ta, bằng nhiều cách khác nhau, tìm ra súng. Song, đâu dễ tạo súng nhanh. Súng nào phải củi. Giả tỷ như chúng ta ở vào đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, chẳng có gì bàn cãi cả. Nhưng, nửa nước đã tự do rồi... Căn cứ bây giờ chẳng phải chỉ là chiến khu Đ..

Đồng chí trong Bộ chỉ huy Miền giao cho tôi nhiệm vụ này.

Rời cơ quan Bộ chỉ huy về Ban tham mưu, tôi dường đi trên ngọn cỏ. Thế là chúng ta có súng rồi.

Dù mệnh lệnh phải giữ tuyệt mật, tôi vẫn không sao giữ riêng trong lòng nổi. Những đồng chí cùng đi với tôi có lẽ còn khó giữ hơn tôi. Đành phải “he hé” cho vài người và căn dặn:

- Đừng nói cho ai biết! Lộ ra là không còn đầu đội nón.

Sự đe dọa kia có hiệu lực đến đâu, tôi không rõ. Chỉ biết khi bắt tay tiễn tôi, nhiều đồng chí cào cào lòng bàn tay tôi, nheo mắt, ý muốn bảo:

- Tớ “rành sáu câu” quá mà, ông bạn!

Vả lại, cái nôn nả khác thường đã tố cáo chúng lôi. Nhất là, cùng đi với tôi, một “tân binh mùa thu” là đồng chí Thái - “Thủ trưởng buôn lậu súng”, như anh em gọi đùa - vừa vượt Tây Trường Sơn vào, còn mặc quân phục và đội kê-pi lính Coong Le. Anh là chuyên viên quân khí.

Lộ trình Dương Minh Châu - Bến Tre được rút ngắn. Trong một ngày chúng tôi đến Bời Lời. Đêm, vượt lộ 1, băng luôn “đồng chó ngáp”, tảng sáng đến bờ Vàm Cỏ. Chiều, đáp xuồng máy, tảng sáng đổ bộ Hội Cư. Đêm, vượt lộ 4, vượt sông Ba Rày, vượt luôn sông Tiền. Chiều, có mặt ở Định Thủy, trình diện với Tỉnh ủy Bến Tre. Và, hai hôm sau, giáp mặt biển Thạnh Phú.

Chúng tôi lo mình chậm. Kỹ thật, còn đến nửa tháng chọn hàng chục điểm đốt lửa, chọn luồng lạch và cả con rạch không có tên trên bản đồ để giấu tàu, cất vũ khí.

Nhân dân ven biển Bến Tre đều tham gia Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Nơi đây lại xa đồn địch. Song, chúng tôi buộc phải ngụy trang công việc của mình: đoàn cán bộ nghiên cứu đánh tàu trên cửa sông Hàm Luông. Quân khu 2, Tỉnh ủy cử cán bộ đi với chúng tôi. Huyện ủy phân công một đồng chí thường vụ chuyên trách và tại xã, chỉ mỗi đồng chí bí thư chi bộ là hiểu cái gì thổi chừng ấy người về vùng biển hẻo lánh này.

- Địch mà ngửi ra, lôi thôi to!

Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy nhắc đi nhắc lại...

Chúng tôi ăn Tết vài địa phương. Cái tết giải phóng thứ hai.

- Chà! Giờ này, mấy ảnh còn dơi dơi ai đâu, không biết - Thái chắt lưỡi.

Bức điện mà Bộ chỉ huy Miền đưa tôi đọc, vỏn vẹn mấy dòng:

Từ 18 tháng 2 (dương lịch) trở đi, đón ở Rồng Khỏe. Dấu hiệu theo quy ước: ba đống lửa, cộng tròn sáu. Khách viếng tên Lê Văn Tân.

Rồng Khỏe ghép chữ Long (Hàm Luông) và chữ Thạnh (Thạnh Phú). Ngày 18 nhằm mùng bốn Tết.

Ai cũng hy vọng chờ và ai cũng nguôi hy vọng khi đêm thứ mười hai sắp tàn. Bánh tét thì phơi khô, nồi thịt kho thì kho đi kho lại, sắc đến mức giống kho khô... Ngày hạ nêu đã qua... Rằm cũng vừa qua.

Gói trà Thái Nguyên bao bạc số I sạch trơn qua mấy đợt “UTQ” [i] nói chuyện khào và khoanh tay rế để dằn cơn nóng ruột. Mí mắt tôi nặng trĩu. Chất đặc của trà loãng trước cơn buồn ngủ. Sau khi gắng vứt vào đống lửa mấy gộc mắm, tôi thót lên võng, quấn vào tấm vải dù.

- Dậy! Dậy! Tới rồi!

Trong giấc ngủ cực say, tôi nghe ai đó gọi, lắc vội khẩn cấp:

- Cái gì? - Tôi choàng dậy, mắt cay xè.

- Tới rồi! - Đồng chí ở Quân khu 2 [ii] không chờ tôi, đã bươn bả ra doi. Tôi vọt khỏi võng và tuy chưa thấy cái gì cả, cũng reo:

- Tới rồi!

Trời rựng sáng, mặt biển bằng phẳng giống như một trảng cỏ trải rộng. Đống lửa lụi dần. Các ngọn đèn đáy mờ trong màu hồng vừa nhuốm.

Một chiếc tàu đang rẽ sóng tiến vào đất liền. Chúng tôi hốt hoảng khi nhìn ra nó: nó là tàu tuần duyên của hải quân ngụy sườn in rõ chữ trắng rất nổi: HQ 279VĐ. Nhưng, trên tàu lặng trang. Và, tàu không chạy một mình, nó kéo theo một tàu đánh cá hơi khẳm, thứ tàu thông dụng của ngư dân các vùng biển mang số hiệu Bến Tre. Đề phòng bất trắc, chúng tôi chọn chỗ núp.

- Rõ ràng, họ nháng quẹt bốn cái... cho nên tôi trả lời hai cái nháng quẹt... Sao bây giờ lại kỳ ôn vậy?

Đồng chí cán bộ quân sự Khu 2 lúng túng.

Tôi kiểm tra: nháng 5 cái. Ở buồng lái chiếc tàu tuần, một cái nháng đáp lại. Đợi vài phút, tôi nháng ba cái, từ dưới tàu nháng đủ ba cái. Cộng tròn sáu. Dẫu sao cũng cần cảnh giác. Tôi ra lịnh cho tàu rẽ vào một vàm nhỏ và bố trí các tổ võ trang sẵn sàng chiến đấu.

Chiếc tàu tuần và chiếc thuyền đánh cá đậu dưới rặng dừa nước giao tầng.

Hoa tiêu, quân phục hải quân ngụy. Anh có vẻ sợ sệt, không dám nhìn thẳng chúng tôi. Một người to lớn, râu lún phún, chân mầy rậm, mặt hốc hác, mắt buồn rười rượi, môi mím chặt... từ trong khoang chui ra.

- Hai Cũ! - Tôi mừng như phát điên, nhảy lên buồng lái, ôm chầm anh.

- Anh vào, hèn chi điện ghi là Lê Văn Tân... Ai dè, anh lấy tên thằng Mới.

Hai Cũ chỉ nhếch mép đón tôi. Anh nói một câu xa lạ:

- Tâm hy sinh rồi...

Tâm nào? Hai Cũ chỉ nói bấy nhiêu. Anh hờ hững bắt tay số người ra đón.

- Cho nước sạch tắm rửa chú ấy!

Giọng anh nức nở.

Bây giờ thì tôi đã thấy. Trong chiếc thuyền đánh cá, một bó chiếu vấy máu. Đôi chân nhợt nhạt của người chết thò ra ngoài chiếu.

- Trên tàu, hết thảy mấy người? -Tôi hỏi Hai Cũ.

- Trừ Tâm, còn hai... không kể thằng hoa tiêu, nó là ngụy.

Dưới hầm máy ngoi lên một người nữa, trẻ, đầu rối nùi, mắt trởm lơ. Hai Cũ giới thiệu:

- Không có chú Thìn, chỉ còn nước phá nổ tàu...

Chúng tôi càng lạ lùng khi, trong buồng lái, vọng ra tiếng kêu tuyệt vọng, qua bộ đàm:

- Vân Đồn 279 đâu... Vân Đồn 279 đâu... lên tiếng đi... Vân Đồn...

... Hai Cũ tập kết. Anh mang theo thằng Mới, thằng Hùng. Chị Hai ở lại với con Hạnh.

Vừa chân ướt chân ráo lên xứ Sầm Sơn, Hai Cũ lo gởi gắm hai con học hành. Xong phần con, anh xin đi học. Bạn bè nghe tin Hai Cũ xin đi học đều ra giá: Ba bữa là cao!

Ngay đồng chí chính ủy trung đoàn - bấy giờ, Hai Cũ là trung đoàn phó - cũng ngờ vực:

- Anh Hai nghĩ kỹ đi!

Còn nghĩ tới bao lâu nữa? Anh có tật trời sanh hễ nói làm là làm, không là không... Anh tối dạ thiệt đó - Hai Cũ, tự cho mình như vậy - song chẳng lẽ đầu anh đặc cứng? Còn tại sao anh nằng nặc đòi học ư? Thì cái gì chưa biết phải học cho biết. Nội chữ Cũ tên anh, mà anh hiểu còn bập trầy: cũ mới nè, củ khoai nè, củ soát nè, hùng hùng cũ cũ nè...

Chỉ một lúc, không ai cười anh nữa. Hai Cũ học ra học: miệt mài, cặm cụi suốt ba năm, xong chương trình phổ thông bổ túc.

Khi lãnh bằng, đồng chí giáo viên hỏi anh muốn theo lớp đại học về một môn nào mà anh thích không - anh còn thòm thèm, song lắc đầu: đủ rồi!

Hai Cũ được chỉ định làm Phó Chủ nhiệm Hậu cần sư đoàn.

Trong cương vị này, anh lân la các đoàn ô-tô của hậu cần, các xưởng cơ khí. Ô-tô - vốn là chỗ quen thân với anh - anh xuất thân lái xe mà!

Một lần nữa, Hai Cũ nổi danh. Các lính thợ tán:

- Ông Hai Cũ bắt các xe đã vào bãi tha ma rồi phải nhỏm dậy. Chiếc bất trị nhất nghe ông ấy khua mỏ-lết đã đứng thẳng: báo cáo ông Hai, em có mặt!

Cái mà Hai Cũ ỳ ạch là môn chính trị. Nói cho chính xác, môn lý luận.

Hai Cũ chẳng thấy có điều gì nghịch với anh trong các bài giảng. Song anh nghe chậm mà quên mau. Anh trầy trật với chương trình sơ trung hồi còn trong Nam và đến chương trình cao trung thì anh “cuốn vó chạy dài”. Hai Cũ vẫn đến lớp, đôi bài anh “mười phần hết bảy còn ba”, số bài khác thì “hết hai còn một” thậm chí có bài chẳng còn một tí gì.

Người thông cảm với Hai Cũ là đồng chí Chính ủy Hậu cần sư đoàn.

- Mỗi người có một khả năng... Đừng chê đồng chí Cũ kém chính trị. Tùy cách hiểu thế nào là chính trị.

Hai Cũ say sưa đọc báo. Anh teo dõi đài rất cần mẫn. Anh thèm tin tức miền Nam. Những năm đầu sau tập kết, Hai Cũ rười rượi. Ba thằng cắc ké lên chân. Đôi lúc, anh giận mình tại sao lại tập kết, anh mà còn ở trong Nam, anh chôn sống hết lũ ác ôn này! Rồi, tin tức mỗi ngày mỗi tươi hơn. Hai Cũ khoái quá... Tụi chó đẻ này mà không nện cho nó, nó lừng phèn!

Bị tin tức miền Nam lôi cuốn, Hai Cù đọc luôn tin miền Bắc... Rồi tin thế giới. Hai Cũ mà dám bình luận cả buổi về cách mạng Cu-ba, nhiều người phát hoảng về các hiểu biết của anh.

Giữa năm 1960, anh được lịnh chuyển công tác.

Một Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đích thân gặp anh và chẳng rõ đồng chí Thứ trưởng trao đổi việc gì mà Hai Cũ bàn giao công tác cũ có mấy tiếng đồng hồ, leo lên côm-măng-ca, giục nổ máy, không từ giã đơn vị - bỏ luôn bữa liên hoan thịt chó.

Anh xuống Hải Phòng, hấp tấp đến nỗi - lúc anh đi như bay vào cơ quan Đoàn 759 - một sĩ quan kiểm soát quân sự đã đón anh, chập gót chân:

- Báo cáo đồng chí Thiếu tá! Xin đồng chí chỉnh đốn trang phục.

Hai Cũ nhìn lại mình: áo vẫn bỏ vào quần, nịt ngay ngắn. Người sĩ quan cười tủm tỉm:

- Xin đồng chí Thiếu tá sửa lại mũ, ạ!

Té ra, quá vội, anh đội mũ ngược.

Một thiếu sót lớn của tôi là quên thuật về bước ngoặt trong đời Hai Cũ. Anh được kết nạp vào Đảng sau trận đánh đường 13. Tôi và Hứng giới thiệu anh. Song, chính Hứng mới là người đưa anh vào Đảng.

... Hai Cũ tỉnh dần. Anh ngỡ ngàng nhìn quanh: vì sao anh vô trạm xá? Rõ ràng đây là trạm xá. Y sĩ Thạnh kia kìa... Đã khuya rồi thì phải; bên ngoài tối như mực... Mãi một lúc sau, Hai Cũ mới nhớ. Sau khi thét gọi Hứng, anh kịp nhìn quả bom. Nó hình tròn. Kinh nghiệm nhắc anh trông quả bom hình tròn nghĩa là quả bom sẽ rơi ngay. Anh chỉ còn kịp đẩy Chín Thu... và anh không còn biết gì nữa.

Hai Cũ cựa mình, toàn thân rêm như bị dần. Ngực nặng. Tai lùng bùng... Một tiếng rên nho nhỏ, cạnh anh. Anh cố nghiêng người... - Hứng - da như chuột lột, đỏ hỏn -bôi chất mỡ gì đó...

- Vậy là y không kịp nhảy khỏi xe!

Hai Cũ lồm cồm dậy. Thạnh ngăn anh, song Hai Cũ gạt phăng tay Thạnh:

- Tôi khỏe rồi... Chú Hứng thế nào?

Thạnh lắc đầu. Hai Cũ bước lại giường Hứng:

Hứng chợt bừng mắt... Anh nhận ra Hai Cũ:

- Anh Hai...! - Hứng nói, khó nhọc - Anh xin vô Đảng, nghen... Tôi giới thiệu anh...

Thạnh gọi tôi - tôi đang giải quyết công việc với Út Giảng.

- Anh Thắng... - Giọng Hứng nhẹ như gió thoảng - tôi với anh giới thiệu anh Hai vô Đảng...

Từ khi bị hất khỏi chiếc xe nồi đồng đến giờ. Hứng mới mở miệng. Hứng nói được bấy nhiêu và cố chờ Hai Cũ, trước khi nhắm mắt... Hai Cũ đã gật đầu.

Chôn cất Hứng xong, Hai Cũ viết đơn. Anh vừa viết vừa nức nở:

- Tôi đoán trước Hứng sẽ chết. Sau vụ con Yến nó dằn vặt dữ tợn. Nó chuộc tội đó! Con Yến mà lọt vô tay tôi!

... Hai Cũ tập vật lộn với sóng trên thuyền đánh cá mong manh đi lại nhiều lượt ven biển từ Hải Phòng đến Vĩnh Linh trong những mùa khác nhau.

Đôi khi, anh cười một mình: tưởng là học chai máy xe hơi, ai dè cấp trên giao công tác cho anh là nhờ anh nổi tiếng sửa xe.

Tháng 6 năm 1961, chiếc thuyền máy trong Nam ra xin vũ khí. Chiếc tàu nhẹ hều, như một bọt nước trên đại dương, trọng tải chỉ được 4 tấn. Nó rời bờ biển Bến Tre và đi mất nửa tháng. Đón các đồng chí lên cơ quan, anh không để họ yên một phút. Chuyện quê hương phận nào thôi, chuyện chính là đường đi nước bước. Anh hỏi, họ trả lời, cứ vậy, kéo dài mấy ngày.

Anh cho lôi chiếc thuyền lên ụ, tự mình xem xét, rà máy, gõ từng tấm be... Anh cùng chiếc thuyền chạy thử tới Vinh. Khi trở ra, anh mở toàn bộ máy tàu thay món này, chỉnh món kia cho đến khi anh ưng ý.

Hai Cũ báo cáo với cấp trên: anh xin được đi chuyến đầu với chiếc thuyền cũ kỹ này. Anh muốn đích thân quan sát lộ trình, bến bãi trước khi đưa hàng loạt tàu thuyền trọng tải lớn vào đường dây.

Trước hết, cấp trên cứ hỏi đi hỏi lại mãi: có cần Hai Cũ đi chuyến đầu không?

Anh cố gắng chứng minh rằng anh đi là cần, rất cần. Tánh của anh ai cũng biết, anh ghét lối chỉ huy năm ngón. Mà, theo anh, đưa vũ khí vào Nam hệ trọng lắm, anh em đồng chí ngóng chờ có lẽ mỏi mắt rồi, đưa thì phải lọt, đưa lẹ, đưa nhiều. Còn chuyện nguy hiểm, Hai Cũ quen kiểu lập luận: chưa chắc giặc biết thuyền nào là thuyền nào, biết chưa chắc đã bắn - nó tính bắt sống cũng nên, mà hễ áp vô thì ai bắt sống ai, cần coi lại -bắn chưa chắc đã trúng, trúng chưa chắc đã chìm...

Cấp trên nhượng bộ anh. Anh được đi. Đến “tiết mục thứ hai” gay go thập bội: cấp trên cho anh đi thuyền không, hóa trang làm thuyền đánh cá.

- Anh em trong cảnh dầu sôi, chờ chi viện, chừng gặp, chỉ thấy mấy thằng mập lù vô, trang bị toàn “ha tay giơ”, không khéo, họ đạp cho lọt xuống biển. Gì mà dữ tợn vậy? Đằng nào cũng một lần đi, chở cho anh em một ít súng đặng qua cơn ngặt... Nghe anh em nói cảnh đánh giặc trong đó, sao nó thảm quá trời. So với hồi tụi này, anh em còn khổ hơn. Súng “mút” dài thòng, mỗi cây không quá chục viên đạn... Ác nhơn không?

Anh cự nhoi với đồng chí đại tá:

- Một tấn, anh đừng cho là ít... Tôi hỏi rồi, chục kí-lô cũng tốt nữa là... Đã nói là anh em thiếu, anh em nghèo... cả tỉnh, có vài khẩu trung liên, loại đúc hồi Bảo Đại còn làm trùm.

Sau cùng, anh được lịnh mang theo thuyền “một ít” súng đạn.

- Tôi nói một tấn! Nếu cân quá một ki-lô, đem tôi ra bắn...

Anh chọn vũ khí. Ta chưa chuyển vũ khí phe xã hội chủ nghĩa vào Nam. Trong các loại súng, anh cân nhắc từng ly: tiểu liên - mà các-bin, tôm-xông là chính - mút Anh, mút Mỹ, trung liên. Phân nửa trọng tải, anh dành cho đạn.

Vũ khí đưa xuống thuyên, nghi trang cẩn thận. Anh gài bộc phá dưới gầm.

- Ta phải đưa vũ khí vào tận nơi. -Anh bảo cả đoàn khi mọi việc xong xuôi.- Lỡ nửa chừng giặc biết thì ta đánh. Tùy tình hình, ta quyết định cách đánh. Đánh mà thoát thì hay nhứt. Giả tỷ đánh mà không thoát thì ta cho nổ. Nổ thế nào để tụi nó cũng phải mạng đổi mạng với ta!

Hôm sắp lên đường, Mới xuống thăm anh. Mới đã là một thanh niên 19, 20. Nó báo cho anh cái tin vui với giọng “đưa đám”. Nghe rồi anh ngó sững nó: nó đi học Liên Xô, theo ngành điện tử.

Mới cố xin vào Nam, không được.

Hai Cũ cũng phân vân. Ừ, thời buổi này, về giải phóng quê hương là phải quá... Mà, đi học cho tới nơi tới chốn đâu phải chuyện dễ. Anh dốt, cái khổ của kẻ dốt hành hạ anh nhiều năm. Theo nghề lục lâm, chữ nghĩa là thừa. Còn, tu tỉnh làm ăn, thiếu chữ nghĩa thật tức anh ách. Có cái mình đúng hơn một trăm phần trăm mà vì kém chữ nghĩa, mấy tay có học nói một hồi, hóa ra mình trật. Cố cãi, song họ trưng ra sách này sách kia. tờ mấy, đoạn nào... mình đành cứng họng.

Hay là cho Mới đi học?

- Con trốn về Nam... nói cho tía hay. Học thì thằng Hùng, đánh giặc thì con. Nhà tới hai trai, kéo nhau đi học ráo, “ê” không chịu được. Hùng cũng đồng ý với con.

Mới quả quyết,

- Ậy, có về thì xin phép đàng hoàng, đừng trốn...

Hai Cũ phải viết thơ cho nhà trường yêu cầu để Mới về Nam.

Thuyền chạy cặp bờ biển. Những ngày đầu, trong hải phận miền Bắc, không có việc gì đáng nói. Thỉnh thoảng, Hải quân ta xét hỏi, Hai Cũ trình giấy. Giấy của Hai Cũ “mạnh” thế, thường thường người ta xét hỏi, sau khi đọc giấy, bắt tay anh thật chặt. Một rắc rối nhỏ ở Quảng Bình: đội tuần tra dân quân nằng nặc đòi xét thuyền. Hai Cũ buộc phải ghé thuyền, đến Xã đội nhờ chuyển thơ lên Huyện đội. Sau đó, êm xuôi.

Ba giờ sáng ngày 30 tết, thuyền rời hải phận Vĩnh Linh. Đêm đó, Hai Cũ thay bảng số cũ bằng bảng số mới, đốt tất cả giấy tờ đi đường của miền Bắc, lẩm nhẩm và nhắc các người cùng đi. Họ học thuộc lòng thẻ căn cước cùng các tờ khai báo mỗi khi tàu tuần Mỹ - ngụy xét. Đoạn từ Quảng Trị vào Bình Định, họ là dân Phú Yên đi đón luồng cá tránh rét phía Bắc. Đoạn từ Bình Định đến Phan Thiết, họ là dân Hàm Tân, đi đánh cá làm nước mắm. Đoạn từ Phan Thiết trở vào, họ là dân Cồn Cù, Trà Vinh, đi rê tôm. Trong thuyền, Hai Cũ là chủ. Những người khác đóng các vai: Tâm, con rể; Thử, người làm thuê - cả hai đã lái thuyền ra Bắc. Cao, y sĩ, Thìn, thợ máy, chuẩn úy, hải quân, cả hai đóng vai con Hai Cũ.

Trước khi nổ náy, năm người ăn kỳ hết hàng chục chiếc bánh chưng, với giò lụa nhận ở Đồng Hới.

Thuyền ra khơi. Cứ yên trí: máy thu thanh bán dẫn hiệu Sony báo trong buổi phát cuối cùng đêm hôm tin của Nha Khí tượng thủy văn cho tàu chạy ven biển: vùng Trung Trung Bộ trời tốt, gió nhẹ, tầm nhìn xa trên mười cây số.

Hai Cũ giao lay lái cho Tâm. Anh sắp xếp bàn thờ Long Vương, chưng hai trái dưa hấu Đài Loan thật to - Ban chỉ huy Đoàn 759 gửi mua từ Hồng Kông về cho anh. Có đủ nhang, đèn, hai phong pháo sản xuất lại Sài Gòn, gói trà Nghi Bồi Nhâm, mứt, hồng, chà là và luôn mấy gói thuốc lá Ru-bi - những thứ được sửa soạn từ lâu. Thêm mấy đòn bánh tét - cũng vừa nhận ở Đồng Hới. Hai Cũ trang trí bên trong thuyền ảnh đào cải lương, xi-nê. Một hình Ngô Đình Diệm lồng kiếng treo nơi dễ nhìn thấy nhất. Và ngọn cờ ba sọc cắm ở mui, phành phạch trong gió.

Trời chưa sáng. Hai Cũ xem đồng hồ: thuyền ra khơi hơn tiếng đồng hồ rồi. Anh ra lịnh thuyền cấn Nam.

- Chỗ này chắc vĩ tuyến 17.

Anh bảo anh em trong thuyền. Mọi người nhìn vào bờ, cố tìm một dấu vết phân chia. Chẳng có gì cả. Đất liền chìm trong vùng đen đục, tiếp với biển.

Khi trời sáng hẳn, Hai Cũ đoán thuyền đã dấn sâu vào phía Nam, dù cho bờ - cũng giống hôm qua - xanh thẫm màu núi.

Hai Cũ không hiểu vì lẽ gì lòng anh nôn nao. Trong cuộc đời nhiều đột biến của anh, anh chưa bao giờ có cảm giác lạ lùng như hôm nay. Anh không sợ. Song, anh cũng không vô tư như những lần sắp nổ súng.

Cuộc chiến đấu bắt đầu rồi! Nó lặng lẽ như vùng biển sáng nay hay sẽ ồn ào trong cơn giông thế nào cũng ụp tới?

Thuyền giữ cự ly với đất liền từ bảy đến mười cây số.Trong bao la, thuyền dường như đứng sựng. Những cồn cát chói chang nắng lùi một cách nặng nhọc và những mục tiêu trước mắt chỉ nhích tới dần.

Hai Cũ xem đồng hồ liền xì...

Khi mặt trời chen vào Trường Sơn, biển ngả sang màu tím, Hai Cũ nhẩm tính: đã vượt hơn trăm cây số và đã vào vùng đất Thừa Thiên.

Mặt biển vắng hoe. Giờ này, ai cũng lo đón ông bà.

Theo kế hoạch, Hai Cũ cho thuyền chạy sát bờ, nhân khi trời còn sáng. Khi các xóm ven biển khuất phía sau và trời sẫm, thuyền Hai Cũ tắt máy, đâm vào một vũng nhỏ sát núi. Dấu vết trong vũng cho thấy thuyền đánh cá từng tránh gió ở đây. Song hôm nay và giờ này cố sao để địch không phát hiện. Hai Cũ lên bờ quan sát một lối mòn dẫn tới vũng. Phía trên là gì, cả đoàn không ai biết. Chỗ này, Tâm đã ghé, nhưng chưa lên bờ.

Mọi người tranh thủ ăn. Hai Cũ quyết định thuyền sẽ nổ máy đúng giờ giao thừa và chạy suốt ngày mai ở cự ly tương đối xa bờ, cố tránh hải quân địch ở Thuận An và Đà Nẵng.

Hai Cũ bảo tất cả ngủ lấy sức, anh ngồi trên gộp đá khuất dưới tàn cây.

Gió biển lao xao, hơi lạnh. Thèm một điếu thuốc hết sức mà Hai Cũ không dám. Từ nhỏ đốn từng tuổi này, có lẽ đây là lần đầu anh ngóng giờ giao thừa căng thẳng nhất.

Chợt, Hai Cũ nghe trong gió tiếng rì rầm. Hình như của vài ba người. Anh tuột khỏi gộp đá, núp vào bóng tối, lắng nghe. Tiếng nói rì rầm theo gió, khi rõ là tiếng người khi hòa trong sóng biển.

Hai Cũ kề tai sát đất. Chân người nhón nhẹ bước trên lối mòn. Có khả năng họ sẽ đến đây. Đến đây, nếu chú ý họ sẽ thấy chiếc thuyền lắc lư trong vũng, dù nơi đó kín mít. Là địch, nhất định chúng sẽ khám xét. Và nhất định bọn anh sẽ chống cự... Vài ba tên lính, không có gì đáng ngại, bọn anh thừa sức vật cổ chúng. Đáng ngại là những khó khăn tiếp theo. Nổ súng, bọn anh khó thoát, ở đây thì không ai đuổi kịp anh, song làm sao vượt khỏi lưới địch giăng trên biển? Bắt sống bọn chúng, không thủ tiêu, chúng sẽ báo động và chuyến đi coi như thất bại.

Thực sự Hai Cũ đã không còn đủ thì giờ để suy tính kể cả thì giờ đánh thức các đồng chí dưới thuyền. Trong ánh sáng hắt lên của biển, anh nhận thấy hai bóng đen sừng sững trên bậc đá, ven lối mòn đổ ra vũng, cả hai đều mang súng, họng súng vượt qua vai họ.

Một trong hai người rít thuốc. Điếu thuốc lóe lên và Hai Cũ thoáng nhận gương mặt xương xương của người hút.

- Hút nhanh đi! Còn phải vượt lộ...

- Chi mà gấp thế... Đây vào thôn, một loáng là tới.

- Đề phòng chúng nó phục kích...

- Ái dà! Đêm ba mươi Tết, rút vào đồn, ở đó mà phục kích...

- Thôi, chẳng cãi với anh nữa... Cúi thấp, kẻo tàu tuần trông thấy...

- Lại tàu tuần!

Người hút thuốc che tàn thuốc.

Du kích! Hai Cũ mờ cờ trong bụng song không đánh tiếng.

- Cái chi trong vũng, hỉ?

Hai người ngồi xuống và họ vội nép vào gộp đá, đặt hai khẩu súng trường, chờ đợi.

- Chẳng phải tàu tuần... Thuyền đánh cá!

- Hôm nay không có thuyền đánh cá nào lại núp trong vũng...

- Mặc họ...

- Mặc thế nào được? Nhỡ thám báo tìm căn cứ thì sao?

- Không mặc họ, làm thế nào?

- Gọi họ hỏi...

- Thế lộ mất...

- Anh giữ súng cho tôi... Tôi giả làm dân...

- Ừ, mà phải thận trọng...

Hai người nói rất khẽ. Song, Hai Cũ chỉ cách họ có một tảng đá. Không nên để họ gọi thuyền. Lỡ các cậu giật mình, bắn bậy...

- Hai cậu...

Hai Cũ vừa cất tiếng, hai du kích nhảy một cái rột...

- Đừng bắn! Dân chúng mà!

Hai Cũ thủ thế, vẫn nói điềm đạm.

Dưới thuyền, đã thức. Hai Cũ nói vọng xuống:

- Có hai cậu đây thấy thuyền, muốn hỏi... Tôi nói là thuyền đánh cá nghỉ máy... Chút nữa chạy. Chạy cho kịp sáng mai ăn Tết...

Hai du kích có lẽ đã hơi yên tâm. Một người chịu theo Hai Cũ xuống thuyền. Liếc qua thuyền - cánh đèn che kỹ trong khoang - người đó tin thêm một chút nữa: không phải là thám báo.

- Chạy trong vùng giới tuyến ban đêm, bác với mấy anh không sợ sao?

Giọng Thừa Thiên của họ khó nghe - Cả hai đã ngồi giữa khoang, uống trà. Hai Cũ biết rằng họ nhất quyết không tin là thuyền đánh cá. Thuyền buôn lậu! Họ hỏi:

- Chở món gì rứa? Ngược Bắc hay xuôi Nam?

Khi nghe nói thuyền ngược Bắc - Hai Cũ buộc phải nói dối - cả hai người châm biếm:

- Đông Hà dạo nay khan gạo.

Khi chúng ta qua lại, lỡ độ đường, ghé tá túc trong vũng, có chi bất tiện không?

Hai Cù dò hỏi.

- Cái này còn tùy... Nếu không có lính, thuyền buôn vẫn ghé. Có lính... Phải đấm mõm nó...

- Lính sư đoàn hay Bảo an?

- Đủ thú... từ Dân vệ đến sư đoàn... cả thám háo và bọn thủy quân lục chiến. Song, về chiều, ít khi có...

Hai Cũ chíp trong bụng. Vũng tuy không to, song thuyền 50 tấn và khi triều lên, thuyền trọng tải lớn hơn vào được.

Qua họ, Hai Cũ biết ở đây có một đơn vị du kích từ những gia đình kháng chiên cũ không chịu nổi chính sách trả thù của Ngô Đình Diệm. Mấy năm trước, họ bị lùa vào các trại tập trung, sau đó, lẻ tẻ trốn lên núi.

Tất nhiên, họ chỉ nói những gì cần nói. Họ hiểu rằng số thương buôn này la cà với địch, nếu không phải là người xấu thì cũng đang bịnh bép xép. Hai Cũ đoán đội du kích vừa nhen và địa bàn vùng biển chưa phải là cố cựu của họ. Họ thiếu súng, thiếu lương thực và với cấp trên.

- Phải tìm cách giúp họ! - Hai Cũ nghĩ thầm.

Nhìn anh du kích xanh xao và hai khẩu súng cổ lỗ của họ. Hai Cũ bàng hoàng. Nếu anh không lầm, họ đặt căn cứ trên quả núi đá này, chênh vênh mép biển và một khi giặc ngửi ra họ, khó mà tránh khỏi tổn thất.

Có lẽ ánh mắt của Hai Cũ bộc lộ đầy đủ tấm lòng của anh, nên một trong hai người nói:

- Biết là gian nan, song còn hơn đút đầu vô tròng của chúng nó... Vả lại, tình hình rồi sẽ sáng sủa ra thôi...

Người nói câu đó là một thanh niên. Khẩu súng anh cầm hôm nay chính là khẩu súng anh được phát trong Tổng đoàn Dân vệ. Anh trốn khỏi Dân vệ chưa lâu.

Hai Cũ còn biết: đội du kích chỉ được ăn chén cơm nóng giữa đêm - lúc họ vào nhà dân, ven quốc lộ. Mà chẳng phải đêm nào cũng thế. Có khi, hàng mươi ngày, họ ăn cơm khô, thậm chí sắn thái khô. Nước lã cầm hơi. Nước lã với họ, là món xa xỉ. Khắp vùng, không nguồn nước. Mùa mưa còn đỡ - hứng ni-lông để dành. Mùa nắng, vài thùng nước cho cả tháng. Đó là chưa kể nơi ở: rúc vào các hốc đá, ngày và đêm không ánh lửa. Nắng hay mưa, ngày hay đêm đều gay gắt. Ngay cột võng, họ cũng phải tỉ mỉ không để một dấu vết trên thân cây...

Càng nghe, Hai Cũ càng xốn xang. Giá mà anh tặng họ chuyến vũ khí này, rồi quay ra, lo chuyến khác! Nhưng, Hai Cũ không được quyền làm như vậy...

Anh chỉ có thể để lại cho đội du kích mươi cân gạo, vài đòn bánh tét. Riêng hai khẩu Cạc-bin bá xếp và chục quả lựu đạn - trong số vũ khí phòng chiến đấu khi thuyền đụng giặc - Hai Cũ lén đặt trên gộp đá.

Thuyền nổ máy.

Khi hai du kích bu quanh gộp đá - Hai Cụ thấy hai bóng đen khoa chân múa tay - thuyền bắt đầu ra khỏi vũng. Ở nơi nào đó, tiếng pháo giao thừa vọng đến, rời rạc và buồn bã...

Chú thích:

[i] “Uống trà quẹo” - uống cực đậm

[ii] Tức Trung Nam Bộ (khu 8).