hai mươi
Đúng đêm rằm, thuyền Hai Cũ men bờ biển mà anh đinh ninh là Thạnh Phú. Trăng vằng vặc. Tâm ngồi trước mũi, dán mắt trông rặng cây xa xa.
Hình như quá Cồn Ngao khá lâu, nhưng không thấy ba đống lửa. Cả hàng đáy cũng biệt tăm. Hay là trên bờ có giặc?
Triều đang xuống nhanh. Hình dạng bờ biển quen thuộc bỗng khác lạ. Sao lại có cái doi kia? Rõ ràng, đây là cửa sông mà...
Hai Cũ sợ Tâm rối trí, anh không hỏi han,đốc thúc... Giá mà thằng Thử còn sống, thêm hai mắt, đỡ sai sót hơn. Hai Cũ thở dài. Từ hôm Thử hy sinh, Hai Cũ thở dài luôn...
Chiếc thuyền đang lao trong vùng biển tắm ánh trăng, bỗng rùng mình. Hai Cũ suýt ngã ngửa. “Mắc cạn”! Hai Cũ nhảy xuống nước, sình lên đến thắt lưng, chân vịt thuyền khuấy sủi một khoảng đen đặc. Chiếc thuyền quay ngang, không tiến lên mà cũng không thối lùi được. Thìn tắt máy.
- Hè đẫy! - Hai Cũ vừa ra lịnh vừa kê vai đẩy.
Chiếc thuyền khẽ nhúc nhích. Nhưng, không tìm ra lòng lạch, thuyền cứ cựa quậy giáp vòng. Nước rút nhấp nháy và bây giờ thuyên nằm trong một bãi bồi bát ngát. Hai Cũ toan quyết định dỡ vũ khí xuống để cho thuyền nhẹ, song, anh biết rằng quyết định đó quá chậm. Nơi thuyền mắc cạn gần như là đỉnh của một quả đồi trọc và bây giờ muốn ra đến mí nước, phải lôi thuyền hằng năm bảy trăm thước. Mà nước vẫn tiếp tục rút, mí mỗi lúc mỗi xa. Đằng đông, đã ửng hồng.
Chỉ còn đường “tử thủ”.
Ban ngày, giữa bãi bồi, hiện lên một chiếc thuyền mắc cạn - dân sẽ bàn tán, bọn xấu sẽ tọc mạch, tàu tuần sẽ chẳng bỏ qua... Biết đâu, khi trời sáng bạch, ngay trên bờ, lại là một đồn lính nào đó... “Đi năm châu bốn biển bình yên, về đến quê nhà lọt lỗ chân trâu”... Hai Cũ cay đắng than thở, dù anh cố nén bối rối. “Cứ tưởng vụ thằng Thử là vụ cuối cùng”.
Tâm là người ỉu xìu nhất đám. Cho thuyền mắc cạn là vì anh, anh là hoa tiêu.
- Phải chi thằng Thử còn sống!
Tâm quen đo đạc trên bản đồ. Thử - trái lại - đo đạc bằng trí nhớ. Trong chuyến ra, tiếng nói của Tâm quyết định, bởi chẳng ai hiểu bãi bến gần suốt ven biển đất nước ta. Thử ghi nhận nằm lòng. Tài của Thử nổi rõ từ khi thuyền qua giới tuyến, trong chuyến vào. Cái cồn bất nhơn này! Nếu không mắc cạn, cặp đại vào đất liền, chưa tới Thạnh Phú thì Ba Tri, quá Thạnh Phú thì Long Toàn, Cồn Cù, quá nữa thì Vĩnh Lợi, Năm Căn... Du kích lềnh khênh... Khỏe ru! Chẳng rõ đây là đâu...
Hai Cũ không rầy Tâm. Song Tâm “ớn”. Ông nội này có cập chân mày, khi ông “lên cơn”, giống đám mây báo bão - sập xuống tối hù! Ngày thường coi hiền khô khi lâm trận, ổng nghiến răng trèo trẹo. Ổng nói vặn họng là vặn họng thiệt tình! Hôm thằng Thử chết, ổng mà túm được cái thằng mật thẹo, ông dám chôn sống lắm...
Hai Cũ hết còn thì giờ để cự nự. Phải giữ sao cho trọn chiếc thuyền, chờ con nước tối.
Anh nói với tất cả người trên thuyền:
- Bây giờ, không còn cách nào khác. Có thể giặc cho thuyền mắc cạn là sự thường, dẫu có nghi, trước khi nước triều lên, chúng cũng chẳng lội ra đây đâu... Như vậy, nội đêm mai ta tới điểm. Nhược bằng chưa tới điểm thì ta tạt vào một căn cứ nào đó, rồi tính sau... Còn như giặc nghi, nó gọi ta lội đến tàu nó, tôi đi cho. Tôi lựa lời đối đáp với nó... Giả tỷ nó lội ra, ta đánh! Vậy thôi... Ban ngày, cứ hai người một ngồi bên ngoài, đứng núp lén mà nó sanh nghi... Tôi nhắc lại: Tới mức ăn thua, không để thuyền lọt vào tay giặc không để giặc bắt... Đó là lịnh! Tôi nói, đồng chí Cao nghe rõ chưa?
Hai Cũ “ghim” Cao vì nhiều lẽ. Thỉnh thoảng Hai Cũ nghe Cao than, khi thì sóng, khi thì ăn uống. Cao thiếu bình tĩnh trong những lúc tình hình găng. Đáng lý Hai Cũ “xạc” Cao một trận nên thân ở Hòn Hèo. Hôm đó, thuyền tránh bão ở bến Lương Sơn, Thử và Cao lên chợ mua thức ăn, gạo, lấy nước. Trên đường trở lại Hòn Hèo, Cao bảo Thử:
- Đài với báo của mình tuyên truyền miền Nam khổ sở, tôi thấy cái chợ huyện của nó mà hơn gấp chục chợ tỉnh của ta.
Thử cãi lộn với Cao. Cao tuy đuối lý song chỉ chịu thua có một điểm:
- Anh “lập trường” bê-tông cốt sắt, ghê quá! Tôi xin anh chớ nói cho lão Hai Cũ nghe nhận xét của tôi. Anh thì đỏ mặt tía tai thôi, còn lão, lão dám quăng tôi xuống bể...
Tâm thuật lại chuyện xảy ra trên mỏm núi, Cao hạ một câu:
- Canh bạc đặt trong may rủi. Vấn đề là may nhiều hay rủi nhiều!
Cao - tập kết và học y sĩ - không trong diện xung phong đi chuyến này. Song, vì quê anh vùng Biển Bạch và vì thuyền cần một thầy thuốc nên tổ chức bố trí anh. Hơn nữa, anh cần về thu xếp chuyện vợ con, nghe đâu không êm thấm - đó là theo lời anh. Còn theo lời anh Thìn, Cao tiếc là mình lấy vợ sớm... Trước khi rời Hải Phòng, nghe Hai Cũ khai thông về nguy hiểm trên dường, Cao cho rằng Hai Cũ ba hoa. Nhưng, mỗi ngày qua, anh ta thấy nguy hiểm thực nhiều hơn cái mà Hai Cũ dự đoán.
Hai Cũ càng bực bội bởi Cao hay dọ giá đồng hồ đeo tay Nhật và tỷ hối giữa đồng bạc miền Bắc với đồng bạc ngụy.
- Đồng chí thiếu tá yên trí, ai sao tôi vậy! - Cao tự ái, trả lời gay gắt.
Hai Cũ bồi thêm:
- Với đồng chí Cao mà “ai sao tôi vậy” thì tốt quá!
Cao ngồi thu lu trong mui. Mặt tái xám.
Trời sáng. Cồn hiện nguyên vẹn bề mặt lóng lánh của nó. Cồn khá rộng, chiều ngang ước hai cây số là ít, chiều dài thì mịt mù. Ngoài chim bói cá đáp tìm mồi, không có một vật gì trên cồn. Chiếc thuyền, do đó nổi bật.
Đã nom thấy bờ. Xa lắm. Phải đến năm, ba cây số. Tâm lúi húi vừa đo bản đồ vừa ngắm bờ.
- Lạ kỳ thiệt... không phải Thạnh Phú...
Trên thuyền, mỗi mình Tâm biết rặng cây xanh kia có phải là Thạnh Phú hay không.
- Chẳng thấy hàng đáy... Nếu Thạnh Phú, chỗ này là hàng đáy, tới mấy chục miệng lận...
- Coi chừng trôi tận Thái Lan,.. Vậy mà cũng đòi làm hoa liêu! Tụi hải tặc Thái Lan xơi tái hết bây giờ! - Cao làu bàu.
- Thái Lan gì mà Thái Lan! - Thìn cãi lại.
Một số tàu thuyền từ ngoài khơi chạy vào bờ. Hai Cũ không để sót một chiếc nào: Tất cả là tàu thuyền đánh cá bung xa, nay trở về, khẳm đừ.
Quang cảnh buổi sáng nay có vẻ êm ả, mong sao nó êm ả cho hết ngày!
- Đây là Cồn Cù! Ta chạy tuốt cửa Cổ Chiên. - Tâm rối rít - Bây giờ, thấy rõ các động cát... Đó, các chớn trồi hụp trăng trắng là động cát...
Hai Cũ yên tâm được một bề. Tâm biết đích xác phương hướng, hễ triều lên là thuyền có thể rà rà rề phía Thạnh Phú. Hai Cũ ngóng mặt trời. Mặt trời lên cao một chút, anh cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng một chút.
Một ngày căng thẳng qua chầm chậm, song nó vẫn qua. Nước triều bắt đầu thu hẹp cái cồn. Chắc chắn khi mặt trời chưa khuất, thuyền đã nổi. Từ sáng tới giờ này, không một tàu tuần nào của giặc lảng vảng trên mặt biển. Trong vài tiếng đồng hồ còn lại, khả năng xấu chỉ có thể giảm. Hai Cũ đã ngó mọi người với đôi mắt dịu dàng, Cao cũng đỡ tăng hăng, da anh từ xám xịt chuyển sang xám tro.
Chính vào lúc họ ngấp nghé cái nhẹ nhõm, mặt biển bỗng rối tinh. Hàng chục - Hai Cũ đếm mười bốn chiếc - tàu tuần cỡ nhỏ theo một cửa sông nào đó, túa ra biển. Chúng như đàn chó săn, hung hãn trợt trên mặt nước, cắt đôi những đợt sóng, nghếch mũi tìm kiếm. Chúng áp sát thuyền đánh cá. Hai Cũ nhìn rõ cuộc khám xét diễn ra chớp nhoáng.
Không khí trong thuyền trầm trở lại. Da mặt của Cao y như da thằng chỏng.
Nước phủ khắp cồn. Thuyền của Hai Cũ đã lắc lư. Tất nhiên, nó chưa thể nổ máy ngay, song, nó phải nổ máy trong vòng nửa giờ nữa. Mặt trời nghiêng hẳn về Tây, tuy vậy, vẫn còn đến mấy sào mới chìm dưới cái chớn biển xa lắc kia.
Tình thế không ổn rồi! Một chiếc tàu tuần đánh vòng quanh cái cồn mà thuyền Hai Cũ mắc cạn. Hình như bọn trên tàu ra hiệu gọi thuyền anh. Chiếc tàu tuần loại chạy nhanh, mũi dốc ngược rất du côn, buồng lái chắn gió bằng kính, thân sau không mui có thể chở một bán đội An ninh Hải quân. Trang bị của lính toàn “súng Mã Lai”, ở đây nghĩa là toàn Các-bin báng xếp, băng đạn đôi, một khẩu EM tay, một khẩu phóng lựu cỡ nhỏ. Đó là hiểu biết của Hai Cũ và mọi người qua tài liệu hướng dẫn của quân đội ta. Hai Cũ chọn liền phương án. Anh nói nhanh, gọn:
- Ta giành bất ngờ, tụi nó nhất định bị! - Lời anh như đinh đóng cột.
Tâm, Thìn lặng lẽ nghe. Với Tâm, bốn người “ôm hè” nửa chục đứa là “dư sức”. Với Thìn một sĩ quan kỹ thuật, chưa thử lửa lần nào (ở Sông Ray, anh chỉ bắn hú họa nửa băng Cạc-bin) mà lần thử lửa đầu tiên lại thuộc lối đánh “xáp lá cà” - mệnh lệnh là mệnh lệnh. Họ không trả lời “rõ” theo điều lệnh song Hai Cũ tin rằng ở hai người, nhất là Tâm, mọi việc sẽ trôi chảy một cách hoàn hảo. Rốt cuộc, còn Cao, tay trung úy quân y “phón” đến nỗi ý tứ lẩy bẩy, đoạn nọ không khớp với đoạn kia:
- Ta sai cơ bản... Đâu phải một tàu... Đài ta nói vùng giải phóng, chưa chắc có... Chết vầy tức tưởi lắm... Không có hoa liêu... Không ai đón... Tụi nó đông, tàu to thế kia...
Hai Cu xụ cặp chân mày:
- Bây giờ, không phải là lúc tôi bửa óc anh, nạo cái khối u toàn cứt ra, nhét vào điều hơn lẽ thiệt... Bây giờ, anh phải hành động theo lịnh của lôi! Nói cho anh tỉnh ngủ. Đâu một chục tàu ngụy chực hờ xông vô, tôi vẫn đủ lẹ để bắn anh! Đừng có mà lơ mơ! Đừng có ngỡ tôi sợ tàu ngụy... Xuống!
Tâm ở trên thuyền. Ba người ra vẻ tận lực lay chiếc thuyền mà chiếc thuyền vẫn trơ trơ. Hai Cũ dặn:
- Đứng trên cái gì đó, cho tụi nó thấy nước chưa cao!
Tâm chuyển cho họ mấy thùng dầu.
Hai Cũ, sau một lúc ỳ ạch, đưa tay làm hiệu với bọn tàu tuần.
Thuyền bây giờ nổi phao.
- Kèm cho chặt! - Hai Cũ lại dặn. Chiếc thuyền tiếp tục đứng yên.
Bọn tàu tuần có lẽ sốt ruột vì mặt trời đã ngày một thấp. Một tràng trung liên xé gió, vút qua thuyền.
- Nổ máy... Nhớ nổ máy sao ra vẻ chân vịt còn đụng sình.
Theo lệnh Hai Cũ, Tâm nổ máy. Máy thuyền rống lên khỏe khoắn lúc đầu rồi ấm ứ, thuyền day ngang.
Hai Cũ ra hiệu phân bua với tàu tuần.
Thuyền tắt máy. Nước lên đến ngực. Cái trò nằm vạ này sắp phải hạ màn thôi.
Tàu tuần bây giờ xáp gần hơn. Hai Cũ nhẩm tính: trong vòng mười lăm phút nữa, thuyền Hai Cũ không ra thì chính tàu tuần sẽ xộc vào tận nơi.
Một tràng trưng liên nữa xé gió, lần này đạn rà thấp. Hai Cũ bỗng làm như mừng rỡ, ra hiệu cho bọn chúng. Thuyền nổ máy. Nhưng máy vừa cất tiếng giòn giã lại vụt tắt. Cả năm lần bảy lượt như vậy, máy mới “chịu” chạy bình thường, Tâm ghé sát tai Hai Cũ:
- Buộc Cao xuống hầm máy. Cháu ngại nó trở quẻ!
Hai Cũ lắc đầu:
- Chưa đến nỗi vậy đâu...
Tâm thở dài. Hai Cũ muốn nói thêm để Tâm yên bụng. Theo anh, Cao bất quá vì mất tinh thần, nên nói bậy, chớ chẳng thể nào trở quẻ, song, tàu tuần đang hầm hừ tiến lại.
Mặt trời chui chầm chậm xuống biển, như nán chút thì giờ xem cái pha cụp lạc sắp diễn ra.
- Đ.m! Bộ chở lậu khí giới sao mà nằm lỳ giữa cồn?
Tên sĩ quan chỉ huy, khi hai tàu kề nhau, rộng họng chửi sang. Hắn đứng ở buồng lái, người mập thù lù.
Một tên lính quăng sang thuyền sợi dây. Hai Cũ nắm sợi dây ấy và quấn vào cột thép đằng mũi.
- Tụi em làm ăn ngoài quần đảo Nam Du, chở bậy ba thứ lặt vặt về kiếm thêm chút đỉnh nuôi vợ nuôi con...
Hai Cũ vừa gãi ót vừa bẩm. Tên lính nhún vai, không trả lời.
Từ buồng lái, tên chỉ huy ra lệnh:
- Trung sĩ Thấu, hạ sĩ Vũ sang thuyền. Buộc tất cả ngồi im, đứa nào rục rịch,cứ bắn!... Quay lẹ về căn cứ!
Chiếc tàu tuần rùng mình lôi chiếc thuyền theo. Tốc độ của nó không nhanh như hồi nãy. Tuy vậy, nó vẫn mở hết máy có vẻ cố thoát cái vùng tối chốc nữa đây sẽ xâm chiếm cả bầu trời và mặt biển.
- Hai ông cho tôi lên tàu thưa với trung úy...
Hai Cũ bỏ nhỏ với hai hạ sĩ quan. Hai thằng bĩu môi, lên cò súng cái rốp.
Hai Cũ vẫn nhỏ nhẹ:
- Không giấu hai ông, tụi tôi chở cần sa. Về tới đồn bất quá mấy ông chia được vài chục ngàn... Tôi muốn thưa với trung úy, đã đến nước nầy, tụi tôi chia hai. Nếu trung úy chịu, ngừng tàu lại, tụi tôi trao hàng... Phần riêng hai ông, tụi tôi tặng mỗi ông một ký... Đó là phần phụ trội... Phân nửa tàu tức là 15 ký!
Hai Cũ làm toán trắng trợn. Anh nhấn mạnh những số: một ký, mười lăm ký.
Hai tên hạ sĩ quan đờ mắt. Hai Cũ bồi tiếp:
- Một ký bây giờ đem vô Sài Gòn, mạt gì cũng ba trăm ngàn!
Hai tên hạ sĩ quan ngó nhau. Hai Cũ biết cả đã cắn câu:
- Tôi đưa kín cho hai ông, không để trung úy thấy đâu, đừng ngại!
Vừa nói, Hai Cũ vừa đặt chân lên tàu tuần. Hai tên hạ sĩ quan ừ không ra ừ, không cũng không ra không. Hai Cũ cứ rấn tới. Một tên chuẩn úy đón anh trên tàu:
- Đi đâu?
Hai Cũ kẽ vào ai hẳn:
- Hai ông kia biểu tôi lên gặp trung úy. Chia nhau tốt hơn mà!
- Chia cái gì? Cần sa hả? Bao nhiêu?
Tên chuẩn úy hỏi dồn dập, sau khi được trung sĩ Thấu hất hàm ra hiệu.
- Dạ... thì cần sa. Vài chục ký...
- Ừ... Đi đi... mà...
Hắn nắm vai Hai Cũ, thì thào:
- Nói với trung úy là mấy người chỉ có 10 ký thôi. Hiểu chưa?
Hai Cũ ríu rít vâng dạ. Anh lần theo thành tàu ra phía trước.
Con tầu rẽ sóng. Nó chồm chồm. Chiếc thuyền chồm chồm theo. Mặt trời chui hết xuống chớn biển, để lại vầng sáng vàng ối đang ngả màu dần.
- Ai cho mầy lên đây?
Tên trung úy thảng thốt khi thấy mặt Hai Cũ. Hắn rút phắt khẩu “Côn” 12, lăm lăm.
- Dạ! Mấy ông biểu tôi lên gặp trung úy.
Hai Cũ lọt vào phòng lái, với điệu bộ sợ sệt. Anh chớp nhoáng đo đạc khoảng cách. Phòng lái chỉ có tên trung úy và tên hoa tiêu. Chẳng cần phải lo. Đằng sau - ngoài hai tên đã sang thuyền, còn bốn đứa: tên chuẩn úy kiêm phóng lựu, một xạ thủ trung liên tay. Riêng xạ thủ đại liên thì lắc lư trên mui buồng lái. Một lính thợ máy ở hầm tàu.
- Không gặp gì hết! Mầy trở xuống thuyền ngay.
Tên trung úy gầm gừ.
- Dạ, tụi tôi chở cần sa...
Hai Cũ nhích thêm một bước.
- Chở bạch phiến cũng vậy... Về căn cứ rồi muốn chia chác gì thì chia - Hắn rít răng - Mầy ra khỏi đây tức khắc!
Máy vô tuyến bỗng phát ra tiếng léo nhéo:
- Trung úy Doanh đâu rồi! Trung úy Doanh...
Hai Cũ quay lưng. Anh nói buông thõng:
- Ông khó tánh quá... Tôi đã giao cần sa cho ông chuẩn úy rồi.
Máy vô tuyến vẫn léo nhéo:
- Trung úy Doanh!
Hai Cũ nghe tên trung úy trả lời:
- Có trung úy Doanh!
Anh biết hắn phân tâm. Và Hai Cũ chỉ cần một phân giây phân tâm đó. Chân anh đánh vụt, hai tiếng nối đuôi: tên trung úy rú đau đớn và khẩu “Côn” rơi độp trên sàn tàu. Hai Cù đá giò lái - cú đá sở trường nhờ đó mà anh thành danh trên giang hồ. Giữa lúc sống chết cọ sát nhau nầy Hai Cũ không phải là không đắn đo: Có nên dùng một thế võ của Tư Chắc Cà Đao không? Anh từng thề, sau khi Tư Chắc Cà Đao chết, quyết quên hết các thế võ của y dạy anh. Nhưng bây giờ không lời thề nào quan trọng hơn phải trong chớp nhoáng hạ thằng sĩ quan này...
Tên trung úy sụm dần, sụm dần, tay ôm đì, mắt chỉ còn lại tròng trắng.
Viên hoa tiêu sững sờ. Y chưa kịp chụp khẩu AR 15 dựng sát tay lái, đã bị Hai Cũ nắm cổ, ngón tay cứng như kìm sắt, anh thì thầm:
- Đầu hàng thì sống!
Máy vô tuyến hối hả:
- Trung úy Doanh! Trung úy Doanh! Sao lên tiếng rồi im luôn? Có việc gì không?
Hai Cũ tắt công tắc phát của máy vô tuyến. Anh bảo viên hoa tiêu:
- Bảo thợ máy tốp máy!
Khẩu “Côn” trong tay anh, nó buộc viên hoa tiêu ngoan ngoãn. Tàu dừng đột ngột.
Tâm coi đó là hiệu lệnh. Anh lật tấm ván, nơi cất mấy khẩu súng ngắn. Đáng lẽ mọi sự êm xuôi, nếu không có Cao.
Từ lúc tàu tuần lôi thuyền theo và trên thuyền thêm hai lính ngụy, Cao như kẻ chết rồi. Anh ta lấm la lấm lét ở góc thuyền. Cao chợt run như thằn lằn đứt đuôi khi tàu tắt máy, mắt không rời Tâm.
- Thằng cha kia! Sao run dữ vậy hả?
Trung sĩ Thấu hỏi, nghi ngờ. Hắn bắt gặp Tâm đang lật tấm ván. Tâm mau mắn:
- Chắc trung úy chịu rồi, tôi đưa phần riêng cho hai ông.
Trung sĩ Thấu ngờ ngợ. Nhưng, Cao thét như trối:
- Đừng... Tâm! Chết...
Chính Cao đã ném cả thân hình lên tấm ván. Tâm xô mạnh Cao. Thìn bấy giờ đã lật được tấm ván ở chỗ khác, kịp thét to:
- Tâm coi chừng!
Không kịp rồi! Loạt đạn AR15 của Thấu ghim khắp người Tâm, giữa lúc Cao còn giữ chặt tay anh. Và, loạt đạn ấy cũng chẳng tha Cao.
Từ buồng lái của tàu tuần, Hai Cũ nghe hai loại đạn gần như hòa làm một. Loạt sau là của Thìn. Hai hạ sĩ quan ngụy gục chồng lên nhau.
Trong âm thanh hỗn loạn ấy, liếng tên chuẩn úy khàn khàn:
- Sao tắt máy? Nổ máy ngay!
Hắn xả một loạt đạn về phía thuyền. Thìn bắn trả.
- Hạ sĩ Tư! Bắn vào thuyền! - Hắn ra lệnh cho tên giữ khẩu đại liên.
- Nổ máy! - Hắn nói vọng xuống buồng máy.
Người lính thợ chưa biết phải làm sao thì tên chuẩn úy đã nhảy xuống hầm tàu. Hắn bóp cò, hất xác người lính thợ sang bên, tự tay khởi động máy.
Hạ sĩ Tư chưa xoay kịp khẩu đại liên về phía sau đã nhảy đùng xuống biển, tránh đạn của Thìn. Hai tên còn lại bắt chước y.
Tàu rồ máy. Song tên chuẩn úy đã bị Thìn khử bằng một phát súng ngắn.
Máy vô tuyến rối rít:
- Vân Đồn 276! Trung úy Doanh! Có cần trực thăng tiếp cứu không?
Hai Cũ ra lệnh cho hoa tiêu:
- Trả lời đi... Trung úy Doanh đang khám một tàu buôn lậu. Mọi việc bình thường. Chắc tàu cặp bến trễ, hàng nhiều lắm, có quà trọng hậu cho chỉ huy... Trả lời thật bình tĩnh, nghe chưa!
Viên hoa tiêu không dám chống cự. Song hắn không thông luồng lạch. Được cái là Thìn điều khiển máy tàu khá thạo.
Mãi gần sáng, họ mới bắt gặp ba đống lửa sắp tàn...
*
* *
Hai Cũ thuật cho tôi nghe những gì xảy ra trong sáu năm tôi và anh xa nhau. Còn về chuyến đi, chính Thìn mới kể tỉ mỉ.
Ngay sau khi mở đầu buổi làm việc - Hai Cũ báo cáo suy nghĩ của anh về cách đặt đường dây lâu bền - ổn định trên mặt biển - anh vẫn chưa rời những ám ảnh vừa qua:
- Chú Tâm chết rồi!
Và anh kết thúc báo cáo:
- Đáng lý tôi phải viếng gia đình Tâm, Thử. Song e chậm trễ chuyện chung. Nhờ các đồng chí vậy. Còn gia đình Cao thì nên lựa lời mà báo, đừng để người ta tủi, tội nghiệp!
Chúng tôi lại chia tay anh. Lần này Hai Cũ là lái dừa trong chuyến ra.
Sắp nhổ sào, Hai Cũ dặn:
- Thằng cha hoa tiêu, o bế nó coi... Biết đâu còn xài được!
Thìn tần ngần nhìn mấy cô du kích. Hai Cũ giục:
- Nổ máy chớ!... Mầy đừng lo. Tao “bao” mầy cái món vợ con!