hai mươi mốt
Chỉ huy sở tiền phương đóng ở một ngôi nhà ngói cũ kỹ.
Tay địa chủ, chủ nhà, tản cư ngay khi quân ta chiếm lĩnh khu vực này - xóm Quán Cơm, đối diện với các ống khói nhà máy xay cao vút của quận 7.
Đợt tập kích Mậu Thân đã khai hỏa giữa đêm qua.
Tôi và Út Giảng ngồi quanh ngọn tọa đăng. Trước mắt chúng tôi là tấm bản đồ Sài Gòn bọc ny-lông chi chít các mũi tên xanh, đỏ, vạch bằng bút chì mờ. Ở gian cạnh, chiếc ra-gô-nô quay rè rè phát đi một điện khẩn. Bộ đàm của tổ truyền tin và của tổ trinh sát kỹ thuật vang lên đủ loại âm thanh: tiếng khàn khàn của một cán bộ chỉ huy từ một ngôi nhà cao tầng nào đó giữa trung tâm thành phố hay rìa sân bay Tân Sơn Nhất, tiếng rối rít của một đơn vị trưởng biệt động quân ngụy, tiếng chỉ điểm cho pháo của bọn lính dù và cả tiếng Mỹ ặc ặc trong cổ họng.
Nền trời từng chặp lóe rực. Những chiếc pháo sáng do máy bay thả hoặc do đại bác bắn lên, lơ lửng với những chiếc dù trắng tinh. Chân trời thì tô màu đỏ sẫm: các đám cháy và các kho đạn nổ...
Đã quá 11 giờ đêm, Út Giảng tiếp tục đánh dấu bản đồ, đối chiếu với các bản thông báo do tổ truyền tin chốc chốc mang đến. Khúc bánh mì và cốc sữa còn nguyên.
- Báo cáo! Một cán bộ Cục Hậu cần xin làm việc với các chú...
Đồng chí cận vệ của Út Giảng đặt lên bàn một giấy giới thiệu công tác. Tôi liếc qua, giấy đánh máy. Một Lê Văn Cũ nào đó... Ai cũng được, miễn là hậu cần! Chúng tôi đang bí. Càng thọc sâu vào thành phố hành lang vận chuyển càng khó, phía trước không gắn với phía sau...
- Mời vào! - Tôi ra lệnh. Và, tôi chúi đầu vào tấm bản đồ suy tính.
- Báo cáo bộ chỉ huy tiền phương! Tôi có mặt.
Út Giảng và tôi cùng ngước lên, cùng rú và cùng nhảy tới, ôm chầm con người cao lớn, khoác chiếc blu-dông xám:
- Anh Hai! Trời đất...
Hai Cũ choàng vai hai đứa chúng tôi.
- Tôi đâu ngờ anh... Tưởng Lê Văn Cũ nào lạ. Chắc anh rủa tụi “quan liêu” này lên mặt!
Tôi cười với anh.
- Nói bậy! Tôi biết các vị rối ruột, còn thì giờ đâu mà “quan liêu”. Rảnh rỗi mới “quan”, sùng sục như nước sôi vậy, “quan” chạy ráo!
Hai Cũ vẫn cà rỡn. Tóc anh đốm bạc, da sạm nhưng chưa có gì gọi là đổi khác.
- Đói bụng thấy mẹ! Sáng nay còn ở Ba Thu, bây giờ tới đây... Chạy “đuôi tôm” thí cô hồn với tụi trực thăng... Qua Tân Nhựt, mấy bà má cho mấy đòn bánh tét, cả tiểu đội ăn giống cọp ăn bồ mắt!
Út Giảng mời anh nhai tạm khúc bánh mì, chờ các đồng chí phục vụ dọn cơm.
- Anh chạy, không ăn. Tụi này ngồi, cũng không ăn.. Từ lúc nổ súng tới giờ, toàn uống nước... - Tôi nói trong lúc Hai Cũ nhai ngấu nghiền khúc bánh mì.
- X.76 xin nói chuyện với chú...
Một cán bộ truyền tin bảo tôi. Tôi buông đũa, lại máy.
Thấy tôi, sau khi nói chuyện qua bộ đàm, không quay lại mâm cơm, Út Giảng biết có tình hình xấu. Anh lùa vội chén cơm, rồi tất tả đến chỗ tôi. Tôi đang theo các vạch bút chì, tìm một điểm. Hai Cũ đã ăn xong.
- Mình ở đây có chi bất tiện không?
Hai Cũ hỏi. Anh muốn giữ nguyên tắc. Dù chúng tôi là thân quen, song hiện giờ, trách nhiệm mỗi người mỗi khác, Út Giảng là tham mưu trưởng mặt trận, còn tôi, chính ủy.
- Chẳng những không bất tiện mà còn không thể không có anh! -Tôi trả lời.
- X.76 là tiểu đoàn bộ binh từ đồng bằng Bắc Bộ vào, đang mở mũi đánh vùng này. - Tôi chỉ vùng quận 8. (rêu bản đồ - vấp một đồn án ngữ, kêu bằng đồn Vị Quang...
- Tôi dò mà chưa tìm ra đồn Vị Quang.
Nó nằm đây... Đồn cỡ đại đội, xây tam giác, giữ cây cầu nổi Rạch Cát với Bình Đông...
Út Giảng ghi một dấu đậm lên bản đồ.
- Đúng, đồn tam giác và một cây cầu... Ba lô-cốt ngoại vi, X.76 trang bị nhẹ, không bộc phá, đã phụt mấy quả B. 41, song chưa ăn thua... Kéo dài, chỉ tổ thương vong, mà không đẩy cái đồn, nó chặn lối vào bít lối ra của ta... Tiểu đoàn trưởng xin chỉ thị!
Tôi thông báo những điều vừa nghe X.76. Hai Cũ nheo mắt sát bản đồ.
- Đồn bảo vệ nội thành cấu trúc xoàng thôi. Tất nhiên, hỏa lực nhẹ thì chỉ khều nó...
- Các chú - Hai Cũ trở lại lối xưng hô bình thường. (Và điều này khiến Út Giảng rạng rỡ: tôi biết tâm trạng của Út Giảng, anh khổ tâm trong sự “thay bậc đổi ngôi” giữa anh và Hai Cũ: anh là thượng tá). Đặc công của mấy chú còn dự bị không?
Tôi lắc đầu. Tồi nói luôn với anh: X.76 chính là lực lượng dự bị cuối cùng của Bộ chỉ huy tiền phương.
- Chà! Đưa cả hậu vệ hãm thành đối phương, chỉ để vài “chư vị” giữ gôn.... Coi chừng phép đá banh, thủ môn không thể bắt tay ngoài vòng cấm địa... Hai Cũ rõ ràng phấn chấn gặp lại chúng tôi ngay ngoại ô Sài Gòn - Đành phải “nhào vô” với các “huynh” vậy... Nên bảo tiểu đoàn gì đó của các anh giãn rộng, chờ tôi... Tôi quay sang Bến Thủ, điều liền mấy khẩu đội ĐK của pháo binh, tôi trổ tài ngoại giao, chắc chắn họ chịu. Sụp tối, qua lộ An Lạc, cỡ 10 giờ, tới đây... Tiện thể, tôi đôn đốc chuyển thêm bộc phá vào hướng nầy...
Hai Cũ tạm biệt chúng tôi. Thuyền nổ máy. Đồng hồ chỉ 12 giờ đêm.
- Tầm bậy quá! - Út Giảng vỗ đùi, than - Gặp ổng, mắc lu bù, quên báo tin thằng Mới...
Tôi cũng bật la hoảng: Bậy thiệt!
Mới là đại đội phó, trước ở Tiểu đoàn Quyết Thắng trong chiến dịch, chúng tôi rút cậu về bộ phận trinh sát tiền phương, vì X.76 hoàn toàn lạ nước lạ cái với Nam Bộ và vùng Sài Gòn, nên chúng tôi biệt phái cậu làm trợ lý tham mưu cho tiểu đoàn.
- Thôi được! Tối mai ổng trở lại, gọi Mới về gặp ổng. Gọi luôn cô Hương nữa...- Tôi bảo.
Hương, vợ chưa cưới của Mới, “chị nuôi” của Phòng Chính trị tiền phương, đóng cách sở chỉ huy chúng tôi cây số.
- Ổng thấy cô dâu, chắc ưng bụng lắm!
Một quả pháo 155 rít qua đầu chúng tôi. Nó không làm tan nụ cười Út Giảng và tôi - nụ cười vì niềm vui của Hai Cũ.
Khuya đêm sau, đồn Vị Quang và ba lô-cốt bị san bằng. Kết quả giản dị, nhanh chóng như quyết định của Hai Cũ trở về bờ Vàm Cỏ Đông “vay” cho chúng tôi mấy khẩu ĐK. Có thể vì Út Giảng là gánh “hồi tụi mình” và tôi là “thằng em kết nghĩa” của Hai Cũ mà Hai Cũ thiên lệch: ngoài ba khẩu ĐK 57 với cơ số đạn “cỡ phú nông”- như Út Giảng đánh giá - chúng tôi nhận được của Bộ chỉ huy pháo binh hai khẩu đội trọng liên 12 ly 8, hơn chục khẩu R.P.Đ, nhiều B.40. B.41, cả tấn bộc phá và bốn khẩu M.79 - thứ phóng lựu lợi hại của Mỹ.
- Các chú cứ vuốt râu... Hậu cần đảm bảo cho quân của mấy chú bắn mỏi tay! - Hai Cũ không giấu tự hào.
Hai Cũ gặp Mới ngoài đồn Vị Quang. Khi Hai Cũ đưa khẩu ĐK chui qua cầu An Lạc - anh không chuyển súng theo đường bộ mà bằng đường thủy - anh ghé ban tác chiến tiền phương và nói chuyện điện thoại với Út Giảng. Út Giảng cầm lòng không đậu trước lời xin tha thiết của Hai Cũ, nên cùng Hai Cũ đưa súng ra đồn. Hai Cũ nhắc tới nhắc lui với Út Giảng là chớ cho tôi hay.
- Chú Thắng bận đủ thứ, sá gì cái đồn mạt rệp mà phải báo bẩm với chú ấy... Chú với tôi đi, ta táng một cái rầm - cho mấy thằng biệt động quân tưởng bị trời dành, nhớ cho tới đời chắt chít nó!
Cha con chưa nói với nhau chuyện riêng. Hái Cũ bận cùng Út Giảng và ban chỉ huy tiểu đoàn - tất nhiên có Mới dự - trao đổi cách “tăng hăng” của mấy khẩu ĐK và kế hoạch tiếp sau...
Gần hai giờ sáng, tôi đang viết báo cáo thì Hai Cũ về đến chỉ huy sở. Đinh ninh, Hai Cũ vừa mang súng sang, tôi có ý kiến nên dời trận đánh đồn Vị Quang vào hôm sau... Hai Cù nheo mắt:
- Ừ! Tối mai thế nào cũng tặng cho tụi Ký Thủ Ôn hay tụi xóm Củi vài quả để tụi nó đưa ông bà - mùng bốn Tết mà! Đồn Vị Quang thì chầu trời hồi nãy, bị hốt hồn, nên quên xin phép chánh ủy trước khi cưỡi hạc!
- Tía làm vậy, con thấy không ổn... Gì thì gì, cũng phải thông qua bộ chỉ huy.
Hai cha con ngồi cạnh nhau. Mới chưa báo tin của mẹ và em gái, chưa hỏi tin em trai, đã cự Hai Cũ.
- Tía tính đánh Mỹ y như đánh Tây!
- Ai nói với mầy tao tính đánh Mỹ y như đánh Tây? Đánh Tây, tao cần đách gì ĐK! - Hai Cũ nổi sùng.
- Con nói tía tính y như đánh Tây là về chuyện khác. Chuyện kỷ luật chiến trường... - Mới vẫn không nhượng bộ.
- Vậy tao đi với chú Út mầy, chú Út mầy không phải là tham mưu trưởng sao? Nó ra lịnh chớ bộ tao ra lịnh à? - Hai Cũ chống chế.
- Tía nói vậy mà nghe được!... Tại sao tía không gặp chú Thắng trình bày dự kiến của tía?
Hai Cũ ấm ớ. Út Giảng phải đỡ cho anh:
- Thằng Mới gián tiếp phê hình tôi đó! Thôi, trăm sự tại tao...
- Cái thằng máy móc! - Hai Cũ cố vớt vát - mầy không thấy đồn Vị Quang lật gọng sao?
- Sao không thấy! Không có tía, tiểu đoàn cũng lật gọng nó! - Mới truy bức Hai Cũ tới cùng.
Tôi cười xòa:
- Cha con vừa gặp nhau “chung sống hòa bình” một chút coi! - Anh Hai chưa nói một lời về việc anh đột ngột xuống đây.... Bỏ cái vụ chở vũ khí bao giờ?... Sau trận mắc cạn ở Cồn Cù, còn trận nào “ác xiêm lai” nữa không?... Mới, cháu nói tin của má cho tía nghe...
- Ôi! Đợi nó cho tin thì tôi xuống lỗ rồi! Tôi gặp chị Hai của chú, cách đây vài tháng, lúc tôi vô tới. Gặp con Hạnh... Nó 17 tuổi... Ghê chưa?
Hai Cũ quên phứt chuyện cha con cãi lẫy, nhắc vợ với con gái, mắt long lanh.
- Tôi thôi lo vận tải đường biển sau vụ X.5 [i]. Chú biết vụ đó chớ?
- Biết! Tháng 2 năm 1965. Nghe tin, anh Út với tôi lo cho anh...
- Thì “đi đêm có ngày gặp ma”... Địch ngửi ra khi ta đã chuyển vận được một số lượng vũ khí đáng kể rồi. Bây giờ, chọn con đường khác, thiếu gì cách... Mà tôi không theo chuyến X. 5, các đồng chí đi chuyến đó đáng phong anh hùng... Sau khi thu hẹp hoạt động đường biển, tôi chuyển công tác... Có ở Nam Vang nghe! Hiện thời, chính thức về Cục Hậu cần Miền... Chuyện “thường thường bực trung” vậy...
Một cô gái rụt rè ngoài cửa. Cô hơi thấp người, da bánh mật, mắt đen láy, mặc bà ba đen, khoác AK. Mới vội đón cô, phụ nhĩ cái gì đó mà cô mím môi, hai đồng tiền lúm trên má.
- Hương đó hả con?
Hai Cũ vồn vã bước tới. Hương nói lí nhi trong miệng, chắc cô ta chào. Hai Cũ kéo cô vào nhà, đặt ngồi cạnh anh.
- Tía nghe má con nói rồi... Tía vui lắm... Em Hạnh gởi thơ cho con đây... Để coi tía bỏ đâu... À! (Anh mở xắc cốt) nó đây. Anh chị nhà vẫn bình yên chớ?
- Tía gặp má với em Hạnh bao giờ?
Hương cầm thơ, ngó qua phong bì mà chưa đọc. Cồ dạn dĩ khá nhanh. Cô hỏi sức khỏe Hai Cũ, tin tức Hùng.
- Hùng học ở Liên xô, ngành chế tạo máy... Cái thằng làm biếng viết thơ thượng hạng. Nó chưa biết con... Để rồi tía báo cho nó mừng.
Hai Cũ hết ngó con trai rồi ngó dâu. Tôi biết anh nở từng khúc ruột.
- Lo cơm nước cho mấy anh, mấy chú, sao con không đeo dao phay, đũa bếp mà đeo AK?
Hai Cũ đùa. Hương thẹn quá, né vào vai anh:
- Tới chú Thắng, chú Giảng còn đeo súng, nữa là lính lác như con...
- Tía nói chơi thôi... Phải bắn chớ...
Út Giảng nói vài nét về cô dâu của anh. Hai Cũ có vẻ chịu lắm.
- Vậy sao? Bắn loại giỏi, chạm trán với Mỹ nhiều trận. Vậy là con hơn tía rồi!
Anh bảo Mới:
- Hương nó là dũng sĩ cấp ưu tú... Còn mầy, mầy là “dượng dũng sĩ” thôi sao?
Mới nói với Hương:
- Đừng thấy tía khen mà đi trên ngọn cỏ, nghe bậu!
Hai Cũ hỏi, giọng nghiêm chỉnh:
- Hai đứa tính chừng nào cưới?
Hương cắn chéo chiếc khăn rằn quanh cổ không trả lời.
Mới nói lẫy:
- Hương biểu con chừng nào hết giặc thì cưới.
- Chà! Giặc cũng có thể hết qua chiến dịch này, cũng có thể chưa... Coi là chưa đi, cho chắc!
- Anh Mới vu cáo con đó, tía... Con đâu có nói vậy... - Hương thỏ thẻ. Có lẽ nó hiểu nỗi lo lắng chân thành của cha chồng.
- Tốt quá! Con gái thời nay, như con mới đúng... Bà Định làm tướng, con không tướng cũng phải là úy! Chuyện vợ chồng mà nay lần mai lữa là không nên. Con nhà võ, hễ chịu thì chịu, không thì không, đã chịu thì cưới. Tía nói vậy, con Hương nghĩ coi đúng không? Hườn hườn, tía lo đám cưới hai con, hổng chừng vài tuần nữa... mãn chiến dịch này!
Hương không nói gì thêm. Chúng tôi biết là nó bằng lòng.
Chú thích:
[i] Vụ Vũng Rô