hai mươi hai
Thế mà, Mới hy sinh. Hy sinh ngay trước mắt Hai Cũ, ngay trước mắt Hương.
Hai Cũ ôm thi thể đẫm máu của Mới, máu vấy sang áo quần tóc râu anh. Nước mắt Hai Cũ hòa trong máu còn nóng hổi của Mới. Hương ngất lịm. Công việc cứu cấp Hương không phải là dễ dàng. Tim cô thoi thóp, hơi thở nhẹ đến nỗi không lung lay sợi tóc mịn đang vắt qua mũi cô. Thạnh - bác sĩ quân y tập kết trở về - chiếc sơ mi sọc lấm tấm máu của Mới, đang khẽ đưa miếng bông thấm ê-te trước mũi Hương, cầu mong một tiếng khóc. Hai Cũ ghì Mới trong lòng, song không ngớt gọi tên Hương.
*
* *
Đàn xe học thép tháo chạy tán loạn, những chiếc sau cùng chỉ còn thấp thoáng bên lộ mù u, giống bày trâu sợ pháo, đít nhẩy vồng vồng. Ngọn lửa rừng rực, dựng thành hàng chục cột khói đen đặc, bốc từ những chiếc M.113, M.41, nòng các khẩu đại liên gục cong như ngọn nến hơ nóng, chiếc nón sắt của lính Mỹ vẫn chụp trên đầu chúng, mà bây giờ da của chúng đã nứt, hình thù tựa con lợn quay. Tràng đạn trong xe nổ tiếp, tiếng bé và tiếng to, hệt muối rang.
Bầy trực thăng phóng pháo, tránh đạn từ mặt đất, xây cù trên không, hẳn muốn tống tiễn đến phút chót mấy thằng Mỹ, tẩm liệm cẩn thận trong các quan tài bằng thép đang nung đỏ. Dãy lò gạch nát vụn. Trước mắt chúng tôi ba xác lính bộ Mỹ, giống ba khối thịt băm và ngó thẳng vào cửa hầm của tôi, một thằng lính Mỹ lủng sọ, tay nó còn tì ở cò khẩu trung liên...
Trong âm thanh ầm ĩ của chiến trường, tiếng khóc của Hai Cũ vẫn vang động hơn cả.
Bộ chỉ huy tiền phương chuyển về ngoại ô thành phố đêm thứ tư của chiến dịch. Chúng tôi làm việc trong một dãy lò gạch thủ công xây dựng theo hình chén úp, cổ truyền, ngoảnh ra một chiếc cầu nhỏ, nơi bắt mối một đại lộ chạy thẳng vào trung tâm Chợ Lớn. Bên phải chúng tôi là khu lao động tiếp giáp với các nhà máy xay khổng lồ, bên trái, cách nửa cây số là căn cứ ra-đa Phú Lâm. Sau lưng chúng tôi - hai con lộ rẽ quạt, giữa chúng là cánh đồng chen chúc nhiều ngôi mộ xây, một trong hai con lộ ấy lác đác vài chục gốc mù u.
Chưa tới đợt hầm gạch, lò để trống. Tường lò dày, chắc, nhuộm màu đỏ ối, rải rác có chỗ chảy từng bệt men nâu xám. Nóc lò hở thấy trời. Ngoài cửa chính, lò có hai cửa gió. Công binh đào cạnh lò, sau những đống gạch ngổn ngang, một số hầm tránh pháo.
X.76 - tiểu đoàn trưởng và phó đã hy sinh, Mới được chỉ định chỉ huy tiểu đoàn - trở lại nhiệm vụ dự bị đội và chúng tôi giao cho bảo vệ sở chỉ huy.
Hai Cũ, đáng lẽ rút về tuyến sau, song anh “ham vui”, năn nỉ mãi chúng tôi cho anh “ăn có” chiến dịch. Út Giảng và tôi tội nghiệp nỗi thèm thuồng của anh - “mười lăm năm không cầm quân, ghiền chảy nước dãi rồi” như anh thổ lộ - nên đưa anh theo. Có anh, thêm ấm cúng, như hồi nào ở Đại đội 3. Vả lại, tuy tuổi trọng, Hai Cũ vẫn giữ cái nhìn sắc sảo và nhanh nhạy ứng phó với các loại tình huống chiến đấu.
Do Hai Cũ ở chung với chúng tôi - và Mới cũng đóng vòng ngoài bộ chỉ huy -chúng tôi điều Hương về phục vụ nấu cơm nước cho chúng tôi. Xế chiều. Ngày thứ bảy của chiến dịch sắp qua.
Hương giục năm lần bảy lượt, chúng tôi mới ngồi vào mâm. Đây là bữa cơm trưa. Suốt mười ngày đêm qua, chúng tôi gần như chưa rõ mỗi khi nhai là mình nhai giống gì. Hôm nay, thấy xót ruột.
Mới đang xớ rớ - sau khi báo cáo tình hình với Út Giảng, nó nấn ná thêm vài phút - tôi bảo nó vào mâm luôn. Hương vừa hâm lại, nó nói là hâm ba lần rồi, tô canh chua thơm mùi rau om, hứa hẹn một bữa ăn ngon. Hai Cũ, ngồi xếp bằng trên đệm, gật gù khen cô dâu, bảo chúng tôi:
- Con nhỏ giỏi quá chừng, chưa chính thức về nhà chồng mà đã rành tánh của cha chồng: canh chua phải chua me chín, cay và nước chấm phải là nước mắm không pha chế...
Một phát pháo 105 rè rè và nổ chụp ngoài đồng. Bụi rơi mù mịt. Lúc đầu, chúng tôi cho là địch bắn vu vơ. Hai Cũ xua bụi quanh tô canh:
- Mỹ hại dâu tôi... Mấy chú ăn canh tương nó nấu cá với gạch!
Nhưng Mới - khi pháo nổ, chạy ra ngoài ngóng - đã hào hển báo cáo:
- Pháo điểm!
Chúng tôi bỏ mâm cơm, tản ra hầm. Hai Cũ gọi Hương:
- Bỏ mâm cơm đó, xuống hầm đi con!
Anh đợi Hương xuống hầm rồi anh mới xề cạnh của hầm. Mới biến mất, nó phải có mặt ở tiểu đoàn bộ.
Có đến hơn chục khẩu pháo 105 và 155 cất tiếng một lượt, từ các hướng: Trường đua Phú Thọ, Bình Điền, trại Trần Quốc Toản. Mặt đất gập ghềnh. Điểm hội tụ của các khẩu pháo là dãy lò gạch. Như vậy, sở chỉ huy bị lộ... Pháo chẳng qua là đợt mở đầu.
Từng ánh lửa lóe, hất gạch vụn rơi lộp độp trên nóc hầm.
Giữa tiếng miểng pháo chém gió rợn người, tổ trưởng tổ trinh sát kỹ thuật đến trước miệng hầm, báo cáo:
- Sắp ném bom... nó vừa lên tiếng trên bộ đàm, khi pháo bắn cấp tập. Trực thăng vũ trang sẵn sàng cất cánh từ trường đua Phú Thọ và chiến xa đang hướng về mục tiêu này...
Út Giảng ra khỏi hầm. Anh chỉ thị vắn tắt cho các cán bộ tác chiến. Trái bom đầu tiên của một biên đội Xcai-ray-đơ ném xuống khu vực, cái lò gạch đổ nghiêng, gạch cơ hồ lấp kín miệng hầm chúng tôi.
...Trong hầm còn Hương, Hai Cũ và tôi. Út Giảng, biết rằng từ phút này, trận chiến đấu trên mặt đất bắt đầu, đã dời sang chiếc hầm bên cạnh nơi đặt tổ thông tin vô tuyến.
Chiếc hầm chúng tôi âm phân nửa, trên chất nhiều bao cát, ngó ra cánh đồng. Ở đó, lố nhố nhiều xe bọc thép, số đông là loại M.113, cũng có vài chiếc M.41. Bọn lính, mũ sắt, chạy lúp xúp theo xe.
Xe bọc thép hạ nòng, nhả từng loạt đạn cày khắp cánh đồng. Nhiều ngôi mả đổ gục.
Chúng không vấp một sức kháng cự nào cả. Đạn đại liên xủi ngay cửa hầm chúng tôi. Khoảng cách giữa bọn Mỹ và tuyến phòng ngự của Mới rút ngắn dần. Tôi và Hai Cũ chen nhau quan sát. Hương, ngồi phía sau, luôn miệng nhắc chúng tôi:
- Chú Thắng với tía ngồi thấp xuống!
Một tiếng “uỳnh” rung chuyển. Chiếc M.41 dẫn đầu co giật, vụt đứng sững, ngập trong một biển khói đen quện.
- Lính của Mới chào nó rồi! - Tôi nói.
Đàn xe bọc thép, lổm ngổm như bọ hung, dừng lại. Các loại súng thi nhan rống. Rồi trận địa ta vụt im trở lại.
Một lúc sau, một chiếc M.41 mở mũi. Nó bò chưa được mấy thước thì một phát B.40 từ một công sự ngụy trang kỹ giữa đồng trống nã ngay mặt xe. Thêm một bựng khói vọt cao.
Trinh sát của ta phát hiện một đơn vị Mỹ-ngụy hỗn hợp đang men theo đại lộ, định đột kích sau lưng sở chỉ huy. Tôi hiểu rằng bọn này sẽ chẳng thể nào vượt qua nổi chiếc cầu nhỏ và sớm muộn gì cũng phải tháo chạy. Mối nguy hiểm là ở phía này, phía đồng trống cho phép chiến xa triển khai.
Đợt tiến công của địch tạm gián đoạn. Chúng cần dọn đường tốt hơn. Các tốp trực thăng vũ trang lại hoạt động - phóng hỏa tiễn vào các nơi chúng nghi là ổ đề kháng của quân ta. Tiếng hỏa tiễn nổ đanh, trùm hết trận địa.
Rồi, xe bọc thép tiến. Lại một chiếc nữa cháy.
Dù vậy, gọng kềm xe học thép vẫn cứ thắt. Một số lính của Mói đã bỏ tiền duyên, lùi ngay trước mặt hầm chúng tôi. Phạm vi xạ kích của trực thăng thu hẹp và bây giờ rõ ràng địch tập trung sức tấn công vào dãy lò gạch.
Mới, quần áo bê bết đất, đến hầm Út Giảng:
- Chú cho tập trung thủ pháo, đánh xuyên hông.. Chú ra lệnh cho X.10 ép phía hông kia. Năm phút nữa, chúng cháu xung phong... chính diện tạm thời cầm cự. Khi hai bên xuyên hông, cháu cho vỗ mặt thật mạnh...
Út Giảng đồng ý. Anh truyền lệnh bằng bộ đàm.
Mới xề sang hầm tôi, báo cáo. Nó gọi một tốp chiến sĩ đang ẩn trong đống gạch đến và ra lệnh gọn gay. Tốp chiến sĩ bắt đầu tháo các quả thủ pháo trên lưng nhấp nhổm chờ đợi.
- Cái thẳng khôn hơn cha nó! - Hai Cữ tấm tắc khen.
Hương vẹt Hai Cũ và tôi, ngồi ra miệng hầm. Cô rút một quả thủ pháo và cũng ở trong tư thế sắp sửa xung phong.
Trận địa sôi lên. Tiếng thủ pháo nổ ran hai bên hông đội hình địch.
Một tốp M.113 lù lù cách hầm chúng tôi vài mươi thước. Chiếc đầu tiên và chiếc thứ hai trúng thủ pháo, tốp lính của Mới đã lao ra đuổi theo hai chiếc toan thối lui. Chừng ba bốn tên Mỹ tuôn khỏi xe bốc cháy tựa đống gạch, bắn thẳng vào chúng tôi. Ba thủ pháo cùng lúc vụt ra - của Mới, Hương và - mèn ơi, của Hai Cũ, anh tranh với đâu được một quả, dập các khẩu súng chưa kịp bấm cò. Tôi nghe cả tiếng tiểu liên và súng lục từ hầm của Út Giảng.
Mới bỗng xô Hương vào hầm. Hai Cũ bị dồn sau phía trong, ngồi trước tôi. Mới chiếm cửa hầm. Thân hình lực lưỡng của nó che khuất hoàn toàn chúng tôi, như một bao cát to chắn đạn. Tôi chưa hiểu cái gì đang xảy ra, thì nghe Hai Cũ rú lên:
- Mới!...
Anh cố xô ra.
Hương bỗng nhô qua đầu Mới, thét thảng thốt:
- Anh!
Bằng một cái gạt cực mạnh, Mới hất Hương lộn vào hầm.
Tôi thấy một thằng lính Mỹ lầm lì chỉnh họng trung liên ngay cửa hầm chúng tôi.
Mới và Hương vung tay, khẩu súng ngắn của hai người chớp lên và họng trung liên cũng chớp, cùng một lúc... Một phát đạn thứ ba, chậm hơn, là của Hai Cũ.