← Quay lại trang sách

hai mươi ba

Sau hiệp nghị Pa-ri, vùng giải phóng Đông Nam Bộ mở rộng. Tôi và Út Giảng từ Lò Gò sang Lộc Ninh bằng com-măng-ca, tạt vào thăm Hai Cũ.

Con đường Bổ Túc - Tống Lê Chân bị bánh các cỡ xe hằn, giữa nổi một đường gân, hai bên sâu hoắm. Chiếc com-măng-ca từng chặp lún sình, rú ga hồng hộc.

Ngả rẽ vào nơi ở của Hai Cũ, vết xe càng loạn. Người ta đã đẵn gỗ lót mặt đường và những khúc gỗ chìm dưới lớp sình nhão, đỏ thẫm. Cày cầu bắc ngang suối lắc lư như đưa võng khi chiếc com-măng-ca rón rén lăn bánh trên nó, dán lên mặt cầu một vệt đất sét dẻo quánh.

Cơ ngơi của Hai Cũ nằm dưới tàu những cây dầu lá rộng. Vài mươi ngôi nhà cất tạm, nửa lộ thiên, đằng trước một đám rẫy. Vừa xa mưa, lá bắp non xanh mởn trải rộng giữa những gốc cây đen trũi - có vẻ đám rẫy vừa được đốt vội vã. Đến hằng ba bốn chục xe tải mang nhãn hiệu Liên Xô nép mình trong các bụi rậm.

Một xưởng sửa chữa ô-tô dã chiến. Cũng ánh hàn, cũng tiếng búa, tiếng máy xe...

Trạm thường trực gọi điện vào và Hai Cũ ra lệnh giữ chúng tôi lại. Đồng chí thường trực lễ phép mời chúng tôi ngồi đợi, đinh ninh là thủ trưởng của anh muốn tống khứ mấy ông khách không mời này. Đồng chí bảo vệ của chúng tôi nhụ nhĩ anh, anh lắc đầu:

- Cấp gì thì cấp! Ông Hai bảo đợi thì phải đợi... Ông kia kìa...

Hai Cũ rảo bước.

- Các “huynh” quá bộ đến tệ xá mà không báo trước... - Anh bô bô khi còn cách khá xa chúng tôi.

Sau cái ôm chầm thân thiết, anh nhảy phốc lên xe cùng ngồi với chúng tôi, ra hiệu cho đồng chí thường trực - bây giờ vỡ lẽ - kéo cây chắn cho xe vào.

Chị Hai - gần 20 năm, tôi mới gặp lại, tóc bạc phơ - bồng một cháu trai lối một tuổi - rước chúng tôi vào ngôi nhà gọn gang, như hồi ở Bờ Cang - qua giàn bầu sai trái.

- Chà! Anh chị tệ lắm! - Tôi nói - Gả con Hạnh mà không cho tôi hay... Tới nó có con, tôi mới biết... - Tôi vuốt má bầu bĩnh của thằng bé. Thằng bé - đội mũ len, đi tất lon - nảy người, cười toe toét vói tôi.

- Hạnh à, chào hai chú, đi con!

Một cô gái - nó hưởng những nét đẹp của cha: dong dãi, trắng trẻo - từ trong buồng bước ra, cúi đầu, mặt đỏ bừng. Tôi toan mắng yêu nó về vụ chồng con của nó thì vợ Hai Cũ đã bảo:

- Chú Tư rầy oan cháu... Nó đã có chồng, con gì đâu! Thằng nhỏ là con của con Hương đó! - Chào ông đi, Khánh.

Tôi tròn xoe mắt. Thằng bé chòi hăng hái trên tay vợ Hai Cũ - Chị nựng nó:

- Ối, cháu tui giỏi quá!

Hương có lẽ đang bận bép núc, bây giờ mới ló mặt:

- Nghe khách, cháu tưởng ai... Chú Tư, chú Út khoẻ... - Nói được bấy nhiêu, Hương khóc òa. Nó gầy hơn nhiều so với hồi Tết Mậu Thân.

Hương khóc, cả nhà Hai Cũ mủi lòng. Vợ Hai Cũ bệu bạo, con Hạnh cũng rơm rớm nước mắt. Hai Cũ rầy vợ con.

- Mấy chú mới tới, má nó và mấy đứa khóc giống đám ma, ai chịu nổi... Thôi, con Hương, con Hạnh lo bắt gà...

Anh cố bình thản, song giọng anh lại không bình thản.

Sau khi Mới hy sinh, Hương ngã bệnh. Nó rối loạn tâm thần. Theo đề nghị của Hai Cũ, chúng tôi chuyển nó về phía sau với Hai Cũ.

Tánh Hai Cũ ghét cái gì ướt át, mềm yếu, thế mà đối với Hương, anh chỉ một mực vỗ về. Anh đau vì mất đứa con trai đầu lòng, nỗi đau đó không nguôi ngoai về những đêm thanh vắng, Hương gào điên loạn:

- Anh Mới ơi! Đợi em với...

Anh bứt dứt, như chính anh gây ra cái tang ghê gớm này. Trong hoàn cảnh hết sức gay go sau Mậu Thân, anh cố thu xếp cho Hương về ở với chị Hai - trong vùng địch kiểm soái. Giao Hương cho vợ rồi, anh thắc thỏm. Hương mà có bề gì, thật anh không biết phải làm sao! Thỉnh thoảng, Hạnh báo tin Hương cho anh. Anh suy nghĩ và cuối cùng thấy rằng Hương cần lập gia đình. Chính anh đích thân chọn rể - anh coi Hương như con đẻ. Anh nhớ đến Thìn. Thìn đã về Nam, công tác ở ngành vận chuyển đường thủy thuộc Cục Hậu cần. Hai Cũ tìm Thìn. Trong khi đi tìm, Hai Cũ chắc mẻm chuyện con Hương sẽ xong ngay. Đến chừng gặp Thìn, anh ngập ngừng mãi. Ờ! Dựng vợ gả chồng thời nay phải đâu tùy cha mẹ. Anh chưa hỏi con Hương. Anh lại chỉ quan hệ với Thìn trong công tác.

Nhưng, chẳng lẽ cất công mấy ngày đường, gặp nó, hỏi tình hình ăn ngủ, rồi thót lên Hon-đa về? Sau cùng Hai Cũ nói. Anh nói hết, kể cả tình trạng tâm thân chưa ổn của Hương. Anh đưa ảnh của Hương cho Thìn xem, Thìn không ngạc nhiên chút nào về thủ trưởng của mình, còn thông cảm tấm lòng của một người cha. Cậu xin phép trả lời sau, cám ơn Hai Cũ.

- Bỏ mẹ! Nó không chịu!...

Hai Cũ tự trách; làm mất mặt Hương.

- Phải chừa cái tánh láu táu này mới được, nó còn trẻ, thiếu chi chỗ...

Hai Cũ về cơ quan, rầu rĩ, coi như xe lửa trật đường rầy rồi! Đùng một cái, Thìn biên thơ cho anh: Thìn đồng ý. Hai Cũ mừng rơn: phải vậy chớ!

Nhưng, Hai Cũ mừng không lâu: Lỡ con Hương không chịu thì sao? Coi bộ nó nặng tình với thằng Mới quá! Anh trả lời cho Thìn. Thơ anh đầy lộn xộn: Trước hết, anh vui mừng được Thìn làm rể, kế đó, anh nói là chưa hỏi ý kiến Hương, nếu Hương không chịu thì Thìn đừng giận anh, dù không nên vợ nên chồng với con anh, anh vẫn nhận Thìn là rể. Kết thúc, anh khuyên Thìn “vững niềm tin”!

Anh đón Hương vào căn cứ. Chưa nghe anh nói hết, Hương khóc ào ào. Thây kệ! Nó khóc cho vơi bớt... Vợ Hai Cũ bực anh, cằn nhằn cửi nhủi cả ngày. Nhưng chính chị với Hạnh làm mềm lòng Hương.

Anh lại viết thơ, mời Thìn đến.

Gần đám cưới, lúc mà Hai Cũ bắt đầu “say sưa với thắng lợi”, Hạnh bắn một phát “cà nông phản lực” làm Hai Cũ xửng vửng:

- Anh Thìn với chị Hương lấy nhau là vì thương tía!

Đâu có được! Tụi nó ăn ở với nhau cho tới răng long đầu bạc mà chỉ vì Hai Cũ thì... anh chịu tiếng chửi chó mắng mèo sao thấu!

Anh sừng sộ với Thìn:

- Nếu mầy thương hại con Hương hay nể tao thì mầy còn thì giờ rút lại.. Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên!

Thìn thưa thật: Quả lúc đầu, cậu ta tội nghiệp Hương một phần, phần nhiều là tội nghiệp Hai Cũ, nhưng bây giờ, cậu ta yêu Hương.

Hai Cũ bảo Hương:

- Chẳng may thằng Mới hy sinh, tía không nỡ để con ở góa mãn đời... Tuy vậy, việc vợ chồng hệ trọng, ừ hay không, là tự con. Tía chỉ muốn con quên thằng Mới. Con có chồng mà không vui thi tía còn khổ hơn thập bội.

Hương cũng thưa: Cô ta thủy chung không bao giờ quên Mới. Cô bằng lòng lấy Thìn vì Thìn không ghen với người đã khuất. Thìn thương cô là do cô luôn nghĩ đến Mới. Theo cô đó là hạnh phúc.

Hai Cũ mở cờ trong bụng. Anh “lên lớp” Hạnh một bài. Hạnh vừa nghe vừa cười. Nó cười giống gì cà? Hai Cũ chịu thua.

- Chú Tư còn nhớ thằng Lộ không?

Hai Cũ nhắp chén rượu, hỏi tôi, tại mâm cơm.

- “Mã tà lét” Lộ, sau là thiếu úy, sao không nhớ! Anh ruột Phẩm..

- Ừ, hắn đó đa... Còn thằng Dẻo?

Tôi quên phứt ai tên là Dẻo.

- Thì, cái thằng dính vào đám “chĩa” chú ở dốc Bà Bành đó!...

- Nhớ rồi... Dưới trướng của “thủ lãnh” Sáu Xít. Được anh phong làm thủ lãnh mà.

- Ừ... Tôi gặp hai đứa!

Hai Cũ khề khả kể: Tôi đi “công khai” từ Dầu Tiếng xuống Sài Gòn để từ Sài Gòn đi Cần Thơ. Chú cũng biết, tôi lạ gì ngữ xe cộ, lính tráng. Vậy mà, ngồi lên xe đò rồi, ớn xương sống, chớ lôi thôi sao? Liếc chung quanh thấy khá nhiều mặt rằn rện! Thằng thì đeo kiếng đen gọng bằng gọng bừa, thằng tóc phủ vai như đàn bà sanh non rụng tóc, thằng ngậm ống vố môi xệ cả tấc! May số đông là dân sở đi làm ăn hoặc thăm bà con. Mắc để ý mấy tay “khả nghi”, tôi quên phứt một người ngồi cạnh tôi. Va bận quần áo nhà binh, tay áo xắn lòi dấu xăm... Đôi lần, tôi cũng có ngó qua va. Va đội mũ lưỡi mèo, màng tang thò cả bệt tóc muối tiêu. Va đeo cấp bậc thượng sĩ. Coi bộ nghèo lắm: áo quần không ủi, giày không đánh xi... Xe chạy khỏi Bến Củi, va ngó tôi thường hơn. Tôi nhột nhột trong bụng, nhưng làm gan, ngó thẳng va. Va ốm nhom, mắt trõm lơ. Hình như tôi đã gặp va ở đâu đó... Va tụt lột mũ, cười với tôi:

- Ông Hai mạnh giỏi!

Mặc dù va xởi lởi, tôi giật thót: chết cha! Đành phải đưa đẩy cho qua tang lề:

- Cám ơn, mạnh! Còn chú?

Va vò cái mũ:

- Dạ! Mạnh thì mạnh mà cực lắm... Ông Hai còn nhớ con không?

Giọng nó hiền khô. Nó xưng “con” ngọt xớt, không có vẻ gì dụ khị tôi.

- Nhớ chớ! - Tôi làm hộ xăng xái, kỳ thật nhớ chưa ra. Va là ai cà? Quen với tôi hồi nào?

- Con là Dẻo! - Va xưng tên.

- A! Dẻo... - Tôi làm bộ niềm nở, tới lúc đó, vẫn truy không ra gốc tích va. Có lẽ va biết tôi vồn vã cho phải mà thôi, nên va nói, đúng hơn, va bỏ nhỏ, chỉ đủ mình tôi nghe:

- Ông Hai có lần muốn “bắn bỏ” con đó!

Tôi dường như ngồi trên đống lửa. Chú biết tôi hăm “bắn bỏ” hằng muôn đứa, thằng này thuộc thứ nào đây? Tôi nghĩ, bây giờ mà “a de” thì chết, nên lấn thêm:

- Nhớ! làm sao quên dược... Mà, chú còn tiếp làm bậy nữa không? - Tôi nói bông lông vậy.

- Dạ! Đâu đám... - Va nhỏ nhẹ.

Tôi trót phóng lao, theo lao luôn:

- Đâu dám...! Hừ... - Tôi “hừ” mà ngó chăm băm bộ quần áo lính của va.

- Dạ! Con, sau lần ông Hai phong làm thủ lãnh đó, bị Sáu Xít đòi cái mộc lại...

Tôi đã nhớ mài mại va, tuy chưa thật rõ.

- Rồi, cả nó với con, không đứa nào giữ mộc. Con chẻ chụm lửa. Tây kéo tới ào ào... Con bị bắt, phải vô lính... Con có nghe ông Hai “xử tử” Sáu Xít!

Thằng nó rành nhiều chuyện đây. Nhưng mà, tôi phong cho va làm “thủ lãnh” bao giờ? Thủ lãnh là chức gì?

- Cái cậu bị Sáu Xít tính đem giết đó, nhờ ông Hai cứu, người ta đồn làm quan lớn bên Việt cộng, phải không?

Đúng rồi! Nó nhắc chú, tôi mới nhớ.

- Con đi lính - lính sai vặt mà - tới ba bốn trào: Tây, quốc gia ông Bảo Đại, quốc gia ông Diệm, ông Thiệu... Cái số của con nó hèn đi lính hồi trai trẻ, nay già khú đế rồi, chưa bò lên chức chuẩn úy nổi... - Giọng va bùi ngùi. - Con bây giờ làm lính gác sở cao-su... Vợ cạo mủ, một bầy con. Vợ con đẻ năm một, tới Út Một, Ú Hai, Út Ba... Nói ông Hai thương, bữa đói bữa no. - Hình như va sụt sịt khóc.

Tôi hết sợ va. Va không phải là đứa tồi tệ.

- Con không theo được ông Hai, song cũng hỏi thăm hoài. Tụi nó nói ông Hai làm bự, đâu tới quan tư, quan năm Việt cộng lận... Con mừng cho ông Hai!

Nó khào khào bên tai tôi, giọng pha lẫn tự hào và tôn trọng.

- Ông Hai xuất kỳ bất ý đi xe đò một lần thì không sao, nhưng đừng đi thường, lỡ có đứa nhìn mặt, khó cho ông Hai...

Thằng biết điều quá! Nó nghèo chí tử, chỉ cần tố cáo tôi với đồn công an ngụy nào đó thì dư sức kiếm năm bẩy chục ngàn...

- Chú khá lắm... Qua khen chú... Sớm muộn gì nước mình cũng độc lập, hòa hình, chú rán giữ đừng làm bậy... - Tôi khuyên nó.

- Con mà làm bậy thì đâu còn sống tới ngày nay!... Ông Hai có đi miệt lục tỉnh, nên tránh bến Bắc. Ba Lộ làm thiếu tá biệt kích Mỹ, đóng ở Vĩnh Long... Ông Hai nhớ “mã tà” Lộ không?

Tôi cám ơn va. Tôi bỏ túi va một ngàn đồng. Va nhứt quyết trả lại:

- Ông Hai cho con, con đội ơn... Mà, ông Hai đâu có làm ăn buôn bán gì sanh lợi, chẳng qua lãnh lương như con, sợ còn thấp hơn con... Ông Hai giữ tiền đó phòng hờ...

Tôi mời va thuốc, va nhận.

Nhân tiện, tôi hỏi va về gia đình cai tổng On: con Cách làm đĩ Tây đã thèm, làm đĩ Mỹ, Đại Hàn, bị thứ bệnh hoa liễu gì đó, kêu bằng “Hoa hồng Cao Ly” xì khắp mình mẩy, bây giờ ăn xin ngoài Vũng Tàu. Bang biện Đơ chết già. Thơ ký tòa bố Troa lên tới chức Tổng trưởng, táp kịch liệt, qua Tây ở rồi. Thằng Xanh không biết tin. Con Xết lấy thằng Phẩm, giải nghệ điếm nhưng hành nghề chứa điếm, mở tiệm tắm hơi. Con Yến vừa làm bé thằng Phẩm vừa ăn ở với một chệt già... À, hương quản Đực chết xanh cỏ hồi đồng khởi. Nó lên chức cai tổng, kháng chiến lần thứ nhất không khử nó nổi, kháng chiến thứ hai mới gạch được tên nó...

Tôi với Dẻo xuống xe ở Ngã tư Bảy Hiền. Tôi đãi va một bữa hủ tiếu... Va quyến luyến không nỡ rời tôi!

Hai Cũ kết thúc câu chuyện bằng câu:

- Tội nghiệp cái thằng!

Hai Cũ chạm trán thiếu tá Lộ trong một hoàn cảnh khác. Nghe lời Dẻo, Hai Cũ tránh bắc Mỹ Thuận. Anh theo ngả An Hữu - Cao Lãnh bằng xe lam. Anh định đi tắc ráng từ Cao Lãnh lên Long Xuyên, từ Long Xuyên xuôi xuống Cần Thơ. Đi vòng, tuy xa, song chắc ăn. Người giao liên - một phụ nữ đứng tuổi - tán thành cách “lộn rồng lộn rắn” của anh. Chị dặn Hai Cũ: Lên tắc-ráng, lính có hỏi, thì khai là con gái đau “bịnh đàn bà” nghe Long Xuyên có thầy Bảy Thiều giỏi nên đến hốt thuốc.

Cái tên Bảy Thiều dễ nhớ, vậy mà có mấy phút, anh quên béng. Ngồi vào tắc-ráng, anh kề vào tai chị giao liên, hỏi: - Bảy gì?

Tắc-ráng đợi khách, chưa chạy. Anh lại quên tên ông thầy thuốc “bệnh đàn bà”. Chị giao liên nhắc. Anh nhẩm trong bụng. Ngó sông Cửu Long, ngó phía chợ Sa Đéc một hồi, anh quên lần nữa cái lên ông Bẩy. Chị giao liên tức bực, kề tai anh, nhấn mạnh:

- Bảy Thiều! Dây Thiều! Dây Thiều!

Chà! Bảy Thiều đã khó nhớ, thêm món dây thiều cho nó rối... Đâu phải hễ dây chỉ có dây thiều? Dây cót, dây luộc, dày mây, dây lác, dày lòi tói... thì sao? Hai Cũ bần thần với cái tên của ông Bảy Thiều.

Anh không ngờ, trên bờ, một người mặc sơ-mi trắng ngắn tay, quần téc-gan chăm chú ngó anh. Chị giao liên thúc nhẹ Hai Cũ. Trông lên bờ, mắt anh và mắt người ấy đụng nhau. Một người da tai tái, môi mỏng, mắt một mí, loại mắt lươn. Anh than thầm: Thằng Lộ! Thời của anh tới đây là dứt. Được! Mầy cùng chết với tao... Anh quan sát; chừng bốn năm đứa đi với Lộ. Miễn tao giáp mặt với mầy, mầy phải chết... Lũ kia can thiệp không kịp đâu.

- Anh Hai! Mời anh lên bờ, tôi có chút chuyện muốn nói với anh. - Lộ nhăn nhở gọi Hai Cũ.

- Vén màn rồi! - Hai Cũ đứng lên. Anh nói thiệt nhanh với chị giao liên. - Đừng ra mặt... Báo cáo với mấy anh!

Hai Cũ bước lên bờ. Anh co tay.

- Ta nói chuyện hòa hình mà anh Hai! - Lộ giật lùi. - Tánh anh chưa đổi! Thù tôi lắm sao? Ở đây, anh không liều được đâu... Chúng tôi hạ anh trước khi anh đụng tôi! Nói thiệt đó... Tôi biết anh là ai, đi đâu... Tôi muốn bàn với anh lợi cả đôi bên...

Thằng “mã tà tét” này với mình còn mối thù “sặc máu mũi” năm xưa... Nó xổ giọng lưỡi đường phèn là để bắt sống mình... Tao nói cho bây rành: đừng hòng bắt sống Hai Cũ. Giết mầy có thể khó, làm cho mầy giết tao, đâu khó!

- Anh Hai vô quán uống nước... Anh nhớ, tôi với anh đã từng uống nước ở đường 15 rồi... Cách nay tới hơn hai chục năm.

Ừ, vô quán thì vô! Làm gì làm lẹ lẹ đi! Hai Cũ hiên ngang kéo ghế ngồi. Lộ giữ khoảng cách “an toàn” với anh. Hắn kêu la-ve. Bọn của hắn quanh quẩn ngoài quán. Bây giờ Hai Cũ mới nhìn kỹ Lộ. Tuy da hắn láng lưỡng, mặt đỏ au, cả người nung núc thịt song tất cả những bề ngoài đó không che nổi cái già bao trùm hắn. Mắt hắn lờ đờ. Chân mày chen vài sợi bạc. Nhất là hơi thở mệt nhọc, tuổi hắn nhỏ hơn Hai Cũ song cơ bắp của hắn nhão nhẹt.

- Tôi theo anh từ An Hữu. Anh không thấy tôi mà tôi thấy anh... - Lộ nói - Tất nhiên, tình cờ gặp anh, tôi định bắt. Tôi là thiếu tá biệt kích Mỹ, bắt một cán hộ hậu cần cấp tá của Việt cộng, thế nào cũng lên lon...

- Sao chưa còng tôi? - Hai Cũ bốp chát.

- Anh chưa bị còng có nghĩa là tôi thay đổi ý kiến... - Lộ nhún vai.

- Đừng hòng dụ tôi...

- Anh Hai không biết mình biết địch gì ráo! - Lộ cười, bọt la-ve đóng vành môi, khiến cái cười của nó thêm đểu giả - Hồi anh Hai còn làm “vệ binh” mà tôi chưa dụ anh Hai được, huống hồ anh Hai đã kháng chiến hai lần...

Nó lừa banh làm hoa mắt thủ thành để chọc thủng lưới đây! Đồ ranh con. Đầu tao có sạn, đến thằng cha mầy chưa qua mắt nổi, đừng nói mầy...

- Vòng vo tam quốc hoài! Rao vậy là đủ, vô đề đi... - Hai Cũ hầm hừ.

- Anh Hai nóng nảy quá!... Được, tôi “vô đề”... Anh Hai là sĩ quan hậu cần “phía bên kia”. Người ta phái anh đi mua cái gì? Tụi Quân đoàn 4 hẹn bán cho anh cái gì?

Thằng này nói chuyện bắt quàng!

Sự im lặng của Hai Cũ bị Lộ hiểu theo ý của hắn:

- Tôi không tra gạn để làm khó làm dễ anh đâu... Thôi, nói hay không, tùy anh. Tôi hỏi thẳng anh: anh trả một máy bộ đàm PRC 10 mới tinh, còn trong thùng, là bao nhiêu? Máy PRC 25? Tỷ lệ trả bằng bạc Việt mấy chục phần trăm, bằng đô la mấy chục phần trăm? Tỷ giá hối đoái một đô-la ăn mấy chục đồng Việt?

Hai Cũ bắt đầu hiểu. Anh gật gù, uống một hớp lave. Có lý rồi! Chắc mình không bị nó bắt đâu.

- Ngoài máy PRC, anh cần gì nữa? Máy phát điện 10 ki-lô-oát, 25 ki-lô-oát. Hoặc công suất cao hơn; 100 ki-lô-oát. Toàn đồ nhà binh Mỹ chưa khui. Xe Honda 90, 100. Máy tàu 30 ngựa... Máy VTĐ... Phụ tùng ra-đi-ô... Dây diện, muốn mấy chục ngàn thước cũng có, dây cứng, dây “súp”, máy điện thoại, dây điện thoại, máy phát sóng siêu tần số... Hay thuốc, dụng cụ y tế... Thuốc nổ cũng có. Cần súng M79 không? - Lộ liệt kê danh mục đủ loại.

- Tụi Quân đoàn 4 không dồi dào bằng tôi... cả Quân đoàn 3, cả Biệt khu Thủ đô... Tụi nó đã không dồi dào bằng mà giá thì cắt cổ... Lại không đảm bảo vận chuyển. Làm ăn với tôi, anh khỏe ve. Anh cho điểm đổ hàng dọc biên giới, chỗ nào cũng được. Tôi cho đổ bằng trực thăng. Nói thiệt, anh muốn tôi đổ gạo, tôi cũng đổ... Đổ dưới Lò Gò, tiện cho các anh hơn... Sao?

Trước khi chia tay, Lộ thổ lộ điều sâu kín trong lòng hắn:

- Anh Hai còn hăng... Tôi thì hết hơi rồi! Đánh nhau mấy chục năm, ngán tới họng. Cha Thiệu hô hào đánh, kệ chả. Hội nghị Pa-ri thế nào cũng kết thúc... Ở với mấy anh, đâu xiết, tôi dông thôi. Mà sang Mỹ muốn khỏi làm bồi rửa chén, phải dằn túi nặng nặng... Tôi tốn cả triệu đồng lo lót mới xin được cái chức phụ tá biệt khu trưởng này... Chỉ cần một năm, tôi trả chức... Anh có các thứ để đánh Mỹ, tôi có tiền..

Rồi, nó trắng trợn:

- Anh không phải là sĩ quan hậu cần tôi đã bắn anh từ ngoài An Hữu kìa!

- Chú thất thằng Lộ “dễ sợ” không? Tôi sẽ móc họng nó đòi đủ số tiền nó táp của ta. - Hai Cũ tợp một tợp rượu, chùi mép, khẽ nhăn mặt...

Tôi nghe Hai Cù nói mà thấy vui trong bụng: Hai Cũ trước đòi lột da cai tổng On với Hai Cũ đòi móc họng Lộ - tới hai Hai Cũ.