hai mươi bốn
Đoàn xe dồn đống. Trưa tháng tư đổ hào quang. Ven lộ, những chiếc xe quân sự lật chỏng gọng, cháy bừng bừng, trời đã nóng mà như được chụm thêm củi. Nơi mé vườn cao su - lá vàng hoe - một tốp ngụy núp trong các công sự chưa chịu đầu hàng, bởi lâu lâu, một băng đạn phát ra từ đó nhắm vào đoàn xe chúng tôi mỗi lúc mỗi dài ra.
Út Giảng bực mình. Anh nhảy phóc khỏi chiếc com-măng ca, thân hình bé nhỏ của anh trong một loáng đã đến bên xe thông tin. Tôi cũng sốt ruột, cứ ngóng lên ngóng xuống.
Đằng trước hình như có một cây cầu.
- Điệu này, tụi Sân Dù tạm rạp trước mũi đột kích của quân đoàn ta, lại mò ra nổ sập cầu đây...
Tôi phán đoán với đồng chí trợ lý tham mưu cùng chung xe.
Đồng hồ tay chỉ 11 giờ hơn.
Út Giảng quay về. Anh càu nhàu:
- Một tăng của ta đứt xích, quay ngang cản đường. Tôi đã ra lệnh dùng một tăng khác húc nó.
Tôi nhẹ nhõm. Cấu chưa hề hấn.
Bỗng, súng rộ. Loại 12 ly 7 tự hành. Đạn quét sườn chúng tôi, có vẻ hung hăng. Tất cả chúng tôi lao xuống xe, nấp bên vệ đường. Một số lính của ta trả lời bằng các loạt tiểu, trung liên. Một lúc, cả pháo trên tăng ta cũng cất tiếng. Nhưng, vẫn chưa bịt mõm được lũ tàn binh này.
Út Giảng, sau khi trao đổi với tôi, ra lịnh cho một đơn vị xe bọc thép của ta bung rộng vào vườn cao su. Lịnh của anh chưa được chấp hành thì từ phía cuối đội hình, ba chiếc com-măng-ca mui trần tách khỏi đoàn, men sát vườn cao-su, rồi như ba mũi nhọn, lao tựa cơn lốc thẳng vào những lùm cây đang lay động. Trên xe, nhiều cỡ súng nổ giòn.
- Sao xung phong bằng xe com-măng-ca? Nguy hiểm quá! - Tôi hỏi Út Giảng. Anh lắc đầu, không hiểu. Xe bọc thép của ta đã triển khai, nối đuôi ba chiếc com-măng-ca.
Một chiếc com-măng-ca vụt sựng lại chao đảo, rồi thấy rõ bóng người vọt xuống đất và họ nấp vào mấy gốc cao-su, tay tung thủ pháo, trong khi chiếc com-măng-ca trúng đạn, bốc lửa.
Xe bọc thép của ta dàn hình vòng cung, khép dần, như bàn lay chẹn cổ họng địch.
Đường đã thông. Dù cuộc chiến đấu bên sườn chúng tôi chưa kết thúc, chúng tôi vẫn cho xe nổ máy. Đoàn xe giống con trăn khổng lồ, quẫy khúc về hướng Sài Gòn.
Củ Chi, Hóc Môn, Bà Điểm, Cầu Tham Lương. Sắp đến Bà Quẹo. Đoàn xe ngừng. Một sĩ quan từ xe thông tin đến báo cho chúng tôi lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch. Như thế, quân ta đã chiếm sân bay, Bộ tổng tham mưu và các cánh đang lọt vào trung tâm thành phố. Chúng tôi phải tiếp cận thật nhanh các mục liêu đã được phân công.
Giữa lúc Út Giảng nhắc lại các nhiệm vụ cụ thể của các đồng chí chỉ huy các đơn vị - anh đứng giữa, các đồng chí chỉ huy bao quanh, choán cả mặt đường - thì hai chiếc com-măng-ca mui trần trờ tới, cả hai đều xơ xác, đèn vỡ, đầu xe lỗ chỗ vết đạn. Mỗi xe chất đến chục người.
Út Giảng ngừng nói, nhìn hai chiếc com-măng-ca bướng bỉnh, chiếc trước thọc mũi sát nhóm sĩ quan. Anh gắt:
- Chạy đâu mà lộn xộn vậy? Đơn vị nào? Lùi ngay!
Một người to lớn xuống xo. Ông ta trật chiếc nón cứng màu xanh, lấy khăn tay lau khói và bụi bám đầy mặt. Út Giảng sửng sốt:
- Ủa! Anh Hai...
Hai Cũ cười:
- Báo cáo. Đơn vị hậu cần...
- Bộ anh Hai xung phong hồi nãy hả? - rồi nhảy đến bên anh, hỏi.
- Cháy hết một xe rồi... Dồn ráo ban bệ lên hai chiếc. Thời buổi này hửi bụi phía sau, ai chịu nổi!
Hai Cũ không trả lời thẳng câu hỏi của tôi.
Phải nói rằng trong bộ quân phục màu lá cây dơ hầy, lưng súng ngắn, vai AK, ngực băng đạn, mái tóc lốm đốm bạc, Hai Cũ trông thật là đẹp.
Chiều hôm đó Út Giảng và tôi vào thành phố. Xe chúng tôi chạy chậm. Mặc dù có lệnh giới nghiêm và cuộc chiến đấu thực tế chưa dứt - súng vẫn còn nổ ở nhiều điểm, nổ dữ dội nữa - con đường Lê Văn Duyệt không có vẻ gì đã trải qua giờ phút hãi hùng. Người ta đồ xô đen nghẹt hàng hiên, ngắm nhau và ngắm chúng tôi. Ngọn cờ nửa đỏ nửa xanh sao vàng không biết được may tự hồi nào - trang sức con đường vốn khá dài này một màu chói lọi.
Tôi ngồi trên xe mà ngỡ mình trôi giữa dòng sông kỳ lạ. Thực tại sờ sờ đó, song, trong buổi giao điểm này, tôi tại muốn sống với quá khứ. Út Giảng - vốn ít lời - hỏi liên miệng đồng chí cán bộ từng lăn lộn ở Sài Gòn về đủ thứ chuyện. Cũng dễ hiểu thôi, Út Giảng sẽ làm việc trong Ủy ban Quân quản Thành phố.
Xe đến chợ Bến Thành. Một đám khá đông bộ đội, tự vệ vũ trang và dân chúng trộn lẫn vào nhau. Tôi dễ dàng nhận ra Hai Cũ trong cái biển người lộn xộn đó. Anh vẫn ăn mặc như trên đường hành quân cấp tốc trưa nay. Tòi chợt nhớ câu thơ của vua Trần: Người lính già đầu bạc kể mãi truyện Nguyên Phong.
Người lính già Hai Cũ hẳn là đang nhắc những kỷ niệm của anh trong 30 năm đánh giặc. Anh nói khá hăng. Không nghe lời, song tôi đoán anh sống lại những đoạn đời dọn trước cho cái ngày đảo lộn ghê gớm này. Anh vung tay, anh lắc lư người, anh ném tất cả sức lực vào câu chuyện.
Út Giảng và tôi rời xe, thả bộ gần anh. Mải miết nói, Hai Cũ không quay lại nên không hề biết chúng tôi đứng sau lưng anh.
- Hiểu chưa? Tôi nhắc cho các bạn nhớ; thành phố còn nguyên. Phải giữ gìn nó. của tụi mình chớ của ai? Phải không? Đứa nào tính phá nó, tính làm cho nó mẻ viên gạch thôi, cũng đáng tội xử tử...
Té ra Hai Cũ không nói về cái đã qua. Những người nghe anh im lặng, thậm chí, có người há hốc mồm.
- Trần ai khoai củ mới giành đặng nước... Tôi nói không trúng sao? - Hai Cũ sừng sộ, không có lý do, nhưng anh đột ngột chuyển giọng - Ở đây, có bà con nào biết Tám Trà không?
- Tám Trà nào? - Một người hỏi lại.
- Tám Trà là thằng cha có lẽ quê ở Hàm Tàn, Xuyên Mộc đi lính ngụy rồi trốn, ăn cướp miệt Sông Ray. Người va cao cao, xăm tay, da đen đen...
Tất cả nhíu mày, cố nhớ. Chắc họ nghĩ rằng Tám Trà liên quan gì đây với ông giải phóng trọng tuổi đang nói chuyện với họ - tướng dình dàng, súng ống lỉnh kỉnh đi tìm một tên ăn cướp.
Lúc đầu, tôi tức cười. Trên thế gian, có lẽ có cả muôn Tám Trà, hỏi khan giữa bôn binh Sài Gòn, sao mà ra manh mối. Song tôi không cười nữa. Tôi nhớ rồi. Tám Trà bắn chết Thử trong khi Hai Cũ tha mạng nó ở Sông Ray, cách nay 14 năm.
- Thôi được. Vậy, bà con nào biết tên Phẩm, hồi xưa làm quan cho Tây, vợ tên là Xết, hai người mở tiệm tắm hơi... Y có một lô vợ bé, trong đó, một tên là Yến...
Yên lặng một lúc rồi người ta lắc đầu.
- Không biết à? - Hai Cũ tiu nghỉu.
- Còn một người nữa, y tên Dẻo, trước đi lính gác ở cao-su Dầu Tiếng, sau tản cư xuống Sài Gòn...
Kết quả vẫn không khá. Hai Cũ đành trở lại cái cốt của câu chuyện:
- Thôi được. Thế nào tôi cũng tìm ra... Bà con nhớ cho: lo làm ăn, đừng nghe đồn bậy bạ, phải coi chừng coi đỗi tụi phản động...
Anh từ giã đồng bào, cùng hai người bảo vệ bước đến chiếc com-măng-ca. Lúc đó anh mới thấy Út Giảng và tôi.
Hai Cũ chặp gót chân, Út Giảng ngăn anh. Song, Hai Cũ vẫn chào đúng điều lịnh.
Chúng tôi kéo anh lên xe chúng tôi. Út Giảng lầm bầm:
- Anh Hai thiệt kỳ! Chào gì mà chào...
Hai Cũ trả lời thật nghiêm:
- Mấy “huynh” đừng cự. Đây là vùng mới giải phóng. Dân người ta chưa hiểu, mình xô bồ quá đâu được. Xô bồ, họ tưởng tụi ở rừng loạn xà ngầu, chẳng cấp dưới cấp trên gì ráo. Về nhà, muốn sao thì tùy, còn giữa thiên hạ, cũng giữ lễ nghi chút đỉnh chứ!
Rồi, Hai Cũ vụt chắc lưỡi:
- Bậy! Quên hỏi coi thiếu úy Đường bây giờ ở đâu...
Tôi nhớ chuyện anh bị bão, núp ở Hòn Hèo, nhờ một thiếu úy hải quân ngụy mà anh thoát nguy hiểm.
Tôi trầm ngâm: Hai Cũ xử sự có trước có sau...