Chương 4
TRỰC có đi học lại là bạn học của Lê, con gái cụ Cử Trần Hiếu-Văn. Trực học đọc, học viết, học tính toán và có thể làm nổi đơn từ văn-khế, xem nổi những yết-thị dán ở cổng đình làng. Đối với người dân quê, học-thức ấy đã chắc chắn lắm, đủ để sống lương-thiện và phòng những thói xấu do sự ngu dốt mà ra. Vốn con nhà nghèo, Trực quen làm lụng từ nhỏ nên sớm biết yêu cách sinh-hoạt tự do, một điều kiện thiết-yếu của sự độc-lập về tinh-thần. Gia-sản ông bố Trực để lại cho là một nếp nhà gỗ, một mẩu vườn với dăm mảnh ruộng. Nhà ở giữa rừng, phía sau có dải đồi Xuân-huy bao bọc như tay ngai ; bên hữu có khu rừng cấm làng Mon ngăn cách với đường cái ; bên tả có cánh ruộng làng Đồng bát ngát ; trước mặt là một cảnh đồi lũng kế tiếp nhau như sóng bể chạy xa xa đến tận chân núi Là, sừng-sững trên góc trời tây.
Vẻ đẹp hùng-tráng của thiên-nhiên làm cho linh hồn chàng tuổi trẻ hằng được vui tươi. Công việc nặng-nề là một cách luyện thân thể rất tốt. Không-khí trong-lành giữ cho tình-cảm được thuần-lương.Trực lớn dần và trở nên một người con trai sức lực, điềm đạm, có đủ nết hay.
Nết hay nhất của Trực là yêu mến sự công-bình.
Trong việc giao-thiệp hằng ngày, trong cách cư-xử và trong sự phán đoán kẻ khác, Trực lúc nào cũng tỏ ra người say mê sự công bình đến cực điểm. Nếu Trực thấy ai đi làm thuê mà biếng nhác thì chàng giận đến đỏ mặt. Nghe ai khoe đã làm một việc gian-trá chàng tức khắc chê bai. Trực cứ xét đoán theo lẽ phải, mặc những lời nguyền rủa thù hằn. Còn sự đe đọa, Trực không nghe thấy bao giờ. Trực vốn có hai bàn tay sắt và một cách nhìn tặn mặt thù-nhân.
Trực sống cuộc đời giản-dị tự nhiên như thế cho đến một ngày kia, ngày mồng ba tháng giêng năm ấy, đi xem hội Ỷ-la, Trực được biết sự thổn-thức của tình yêu. Bấy giờ, đang cùng mấy người bạn đứng xem các cô gái Mán tung « còn », Trực bỗng thấy Lê đi qua, dịu dàng như một bà Công-chúa. Mấy cậu trai tân thích cánh nhau, thì thầm: « Lê xinh quá, ai muốn chiếm phần đây? Bính nhé? Giáp nhé? » Trực, xưa nay ít nói đùa, lúc ấy, tiến lên: « Tôi ». Mội tiếng cười vang khiến Lê thẹn, cúi đầu. Thế rồi, từ đấy, Trực yêu Lê, yêu bằng cả một tấm lòng nguyên vẹn. Trực đang sắp sửa nói với mẹ đem trầu cau sang chạm ngõ nhà Lê, thì tin giặc về phá tỉnh bỗng như đám mây đen che phủ mặt trời.
Ngồi trên lưng con trâu phóng nước đại, Trực quả-quyết hẹn với lòng: « Không. Không khi nào như thế được. Không khi nào ta chịu để cho Lê, cho những người đồng-chủng của ta phải khổ cực mãi với lũ tham-tàn ».