← Quay lại trang sách

Chương 11

LÊ về đến búi tre thì ánh nắng đã gay gắt.

Nàng víu thang dây, lên chòi. Cả tâm hồn Lê cồn-cào rạo-rực. Cuộc đời nàng bấy lâu không lo nghĩ, vui vẻ, từ nay biến thành một chuỗi phong ba.

Lê thấy mẹ vẫn còn ngủ, khẽ đặt hai « bắng » nước vào một nơi, đoạn rón-rén lại gần sờ trán. Lê thở dài, ngồi xuống giát. Từ hôm ở nhà, bà cụ Cử đã mắc bệnh. Nay, đang buổi loạn-li, sương nắng không kiêng kỹ được, nên bệnh càng trầm-trọng. Mẹ ốm, người yêu giấn mình trong nơi đạn lửa, thân gái chơ-vơ cô độc, Lê nhìn trước nhìn sau không một sự tựa nương. Còn chăng là mai sau? còn chăng là hy-vọng? Trời ơi, nếu Lê sẵn lòng tín-ngưỡng, lòng tín-ngưỡng vẫn có thể hứa nhiều câu êm-ái cho những kẻ rất ngã lòng! Nhưng không, con một nhà nho, đối với quỷ-thần chỉ « kính nhi viễn chi ». Lê đứng trước sự ngờ sợ chẳng khác con thuyền gãy lái gặp cơn dông.

Quanh sự tịch-mịch của Lê, rừng cây, rừng cây từ sớm, vẫn là một bài ca tráng-lệ.

Lê buồn rầu, ngẩng trông trời biếc. Sự gần gụi hôm nào với Trực sống lại trong trí nhớ nàng, hai giọt nước mắt giàn xuống cặp má xanh xao.

Một vật gì động khẽ cạnh nàng. Lê ngoảnh lại, thấy con vượn nhỏ của Trực cho nàng khi trước, nàng rất yêu quí vì nó thông-minh như người. Chừng cũng biết Lê buồn, con vượn nhìn Lê, kêu nũng-nịu. Cặp mắt nó vàng-vàng trong suốt, lúc ấy, âu-yếm dịu-dàng. Lê cảm-động, vãy nó lại gần, vuốt ve bộ lông mềm mại. Tuy nó chỉ là con vật, sự lưu-luyến của nó cũng cho Lê đỡ được nỗi tịch-liêu. Rồi, vẩn vơ nhớ lại những lời nàng căn-dặn Trực lúc chia tay, Lê nghĩ thầm: « Đã nói, ta phải giữ lời. Suốt đêm qua, Trực lăn mình vào cuộc chém giết, nay chưa về, chàng hẳn đã gặp sự không may. Nếu vậy, ta càng nên vững chí, và nên kíp sang bên ấy xem sao ».

Lê đứng phắt dậy. Bà cụ Cử giật mình thức giấc:

- Lê đâu, con?

Tiếng gọi nhắc Lê nhớ lại rằng ngoài bổn-phận làm vợ, nàng còn có bổn-phận làm con nữa.

- Lê đâu?

- Dạ con đây. Mẹ nghe trong mình thế nào?

- Cho mẹ hớp nước. Trong mình mẹ ấy à?… Khó chịu lắm!

Lê kéo vạt áo lau nước mắt. Nàng quay đi rót một bát nước lá đũm nóng bưng lại chỗ mẹ nằm. Uống xong một hớp dài, bà Cử Trần vừa thở vừa hỏi:

- Trực nó đã lại đây chưa?

Lê đau-đớn:

- Thưa mẹ chưa.

- Nó làm ăn ra sao mà bây giờ chưa có tin lại?… Hay là… con thử đi nghe-ngóng xem…

- Thưa mẹ, con đã nghĩ thế nhưng…

Bà Cử nhìn Lê, đoán rõ ý nàng:

- Được, con cứ đi, không ngại. Con đi xem rồi chong-chóng mà về.

Lê vâng lời mẹ, thắt dao xuống thang. Tuy vậy, Lê vẫn chẳng đành lòng. Sau, muốn dẹp nỗi phân-vân, Lê vừa đi vừa cất tiếng ngâm to bài thơ mà cụ Cử ông đã dạy nàng học thuộc. Bài thơ vịnh bà Phan-thị-Thuấn tử-tiết theo chồng. Bài thơ ấy nhiều phen khiến trái tim Lê phải xúc-động. Nàng thương cảm và kính-phục người đàn-bà họ Phan lắm. Cái chết của người ấy thê-thảm nhưng hùng-tráng biết bao. Rồi, Lê phân-vân nhớ đến Trực, nhớ đến câu nàng dặn Trực lúc chia tay. Phải, Lê sẽ chẳng bao giờ phụ Trực. Nếu Trực không may bỏ mình trong cuộc tranh-đấu với Cờ-đen thì nàng một là ở vậy suốt đời hai là sẽ chết theo chàng.

- Ta cũng có gan làm như bà Phan-thị-Thuấn chứ thua gì!

Nghĩ vậy, Lê thấy phấn-khởi. Nàng bước nhanh, sẵn-sàng chờ đợi bất cứ một sự không may nào sẽ xảy ra. Lê cất tiếng ngâm thơ, tiếng lanh-lảnh và đầm-ấm như tiếng chuông vàng…