PHẦN II
CƠN giông tố của đời Chuyên đã qua. Chuyên bây giờ không phải là Chuyên một năm về trước. Khác từ đầu đến chân, khác từ ngoài cửa vào trong nhà.
Đầu, chàng không có cái đầu tóc và cổ áo dính vào nhau. Chân, chàng không có cái chân thò cả ra ngoài giầy. Ngoài cửa, cái nhà mới sơn vàng cửa sổ là nhà Chuyên đấy. Và bộ sa-lông kê xích vào nhau trong nhà, Chuyên mua đấy.
Thì đã bảo đời Chuyên khác lắm rồi mà.Chuyên bây giờ không phải Chuyên một năm về trước mà.
Cái anh chàng Chuyên ngõ Tân-Quỳnh, mặt lúc nào cũng rầu như dưa, cổ áo sờn, giầy “dẫn thủy nhập điền”, vứt đi. Anh chàng Chuyên ấy nhập hư vô rồi.
Anh chàng Chuyên bây giờ là Chuyên “sì-bo”. Chuyên mặt mũi nở nang, sáng sủa, mặc quần ngắn, sơ-mi màu, tay lại đeo đồng hồ. Ồ, thật là phong lưu mã thượng, thật là trẻ trung, thật là oách!
Cái xe đạp “cuốc” của Chuyên, phải biết, nhất xóm. Lá cờ xanh xanh con con có thêu chữ SF, cắm ở đầu xe đạp phấp phới đập trước gió, đã làm cho trẻ con trong ngõ reo ầm lên, mỗi khi Chuyên về.
Chuyên bây giờ mỗi tuần lễ hai lần xi-nê, đầu chải mượt, đi đứng ra phết ông. Kỳ đá bóng nào, Chuyên cũng có mặt trên bãi Mangin. Nghĩa là Chuyên của tất cả Hanoi hội hè. Chỗ nào có hai người hò reo là có Chuyên. Chuyên sang lắm. Mùa nực này, Chuyên có những một bộ “tô-pi-can” hai chục, bộ đũi cũng hai chục, và một bộ “toan-phin” mười lăm đồng. Và hai cái quần “Ka-ki Ăng-lê ” cụt. Có bút máy, có đồng hồ. Nghĩa là Tây sang, nghĩa là đúng công tử bột.
Nghe đâu người ta mách mợ Chuyên, Chuyên đi hát mấy lượt với anh em, mợ Chuyên đã “can-gián” mãi.
Chuyên khác tất cả. Điều này, không có gì lạ. Khi người ta không có tiền, người ta nghèo; người ta có tiền, người ta giầu. Số mệnh con kiến cũng không cần phải thay đổi, đời thế là thế. Điều này mới ai oán làm sao! Chuyên bây giờ khác hẳn Chuyên ngày xưa, không bị mẹ đay nghiến nữa. Và cái điên đảo của cuộc đời, lại là bà Ký lúc này nể Chuyên hơn là Chuyên nể mẹ.
Luôn luôn, có những sự hỏi ý của bà Ký:
“Mợ định mua chục bát mẫu, con nghĩ sao?”
“Mợ định “ đi ” bốn chai rượu với nghìn vàng là được rồi.”
“Mợ cho cứ biếu ngay một cân bánh nướng, một cân bánh dẻo, thế mà hóa hay.”
“Mợ cứ nghĩ giản dị thế này này, sang hỏi cho anh, bà ta nghe thì chớ, không nghe, lúc ấy lại liệu.”
Nghĩa là nhất cử nhất động, cái gì cũng “mợ định thế này”. Ai cười, ai khóc, cưới xin hay chết chóc, cần phúng-viếng; bà Ký còn hỏi ý con.
Trong nhà đồ đạc kê thế nào, bà Ký cũng hỏi ý con. Bao nhiêu “con nghĩ thế nào?” đến tai Chuyên.
Bao nhiêu cay đắng qua đi, đem lại một chút yên ấm, yên ấm của hồn.
Cầu giời còn cho có hôm nay, đúng ơi là đúng! Người anh hùng lúc bĩ vận còn nói làm gì cho khổ tâm. Sự ngang dọc của Chuyên trong gia đình của Chuyên bây giờ, do chàng tạo ra. Nếu chàng không liều làm ký kho lúc trước, bây giờ làm gì có cuộc đời sán-lạn (?) như ngày nay? Làm gì có những kẻ tung người hứng như ngày nay? Trước kia, Chuyên vuốt mặt không kịp cơ mà.
*Bà Ký đang chọn cà-chua, quay vào hỏi con:
– Mợ mua cả mẻ nầy nhé, con nhé? Có bẩy hào mấy thôi mà! Để mợ mua, mợ để dành cho con, kẻo hết mùa lại bói chẳng có..
Chuyên đang lau đồng hồ, không nghe tiếng bà Ký. Bà Ký lại hỏi thêm một câu:
– Mua nhé, con nhé?
Mỹ đang khâu, thấy mẹ hỏi, bảo anh:
– Kìa anh Chuyên, mợ hỏi.
Chuyên quay ra:
– Mợ bảo gì con?
Bà Ký tươi cười:
– Có mớ cà-chua hơn bẩy hào. Mợ định mua để trữ cho con. Con bằng lòng không?
– Vâng ạ.
Bà Ký vừa chuyên cà-chua sang rổ, vừa khoe với cô hàng rau:
– Cậu “xếp ” nhà tôi, không có cà-chua không ăn được cơm. Bữa nào cũng phải nấu “sốt” mấy quả.
Chẳng biết nghệ thuật bán bàng của cô bán rau cao, hay là sự thực, mà cô vội đáp ngay:
– Vâng, bà Tham cuối phố cũng thế. Hôm nọ, cháu bán cho bà ấy một mẻ ba đồng rưỡi. Gần một gánh cơ mà.
– Bà ấy mua làm gì nhiều thế?
Cô hàng rau cười xinh xẻo:
– Bà ấy bảo ông Tham hay ăn cà-chua. Canh gì không có tí cà-chua là ông Tham không xơi được.
Bà Ký nói ngay:
– Ấy, cậu “xếp” nhà tôi cũng thế. Rõ các “ông” ấy giống nhau cả, sành ăn cả.
Cậu “xếp”, bà Ký đã mệnh cho con bà danh ấy. Bà gọi thế, nếu ai biết để làm gì, người ấy quả là thần minh trên trái đất. Gọi cho nó oai chăng? Cũng có lẽ. Nhưng chưa phải lý tuyệt đối. Đây, nguyên ủy của nó lại sâu xa đến thế này thì đến giời cũng phải sợ đàn bà.
Bà Hảo, từ hồi năm ngoái giúp Chuyên một việc, Chuyên không làm, bà đâm bực mình. Đi đâu, bà cũng bô bô:
– Nó văn dốt vũ dát, không làm loong-toong thì làm gì. Con nhà lính, tính nhà quan. Thứ ấy, rồi đến chết đói.
Ai ngờ đến tai bà Ký, bà thâm gan tím ruột. À, nếu bà bảo con bà là thế này, thế khác thì được. Chớ bà Hảo là cái thứ gì, lại mạt sát con bà, mạt sát gia đình bà? Thế là từ đấy, bà tuyệt giao với bà Hảo.
Cho đến ngày con bà áo gấm về làng, con bà tìm được chân ký kho, bà nhất định gọi Chuyên bằng cậu “xếp”, xem kém gì ai nào. Xem đã ai “ăn thịt” mình nào. Xem đã kém gì cậu “xếp” nhà bà Hảo chưa nào.
Danh vị ở xứ mình đã có cái gì gọi là chính thuận. Ai muốn gọi thế nào thì gọi. Ai muốn đặt thế nào thì đặt. Miễn đừng cho cái chức to quá, to nhất, mới không được thôi. Giời thương thế nào, Chuyên làm ăn khá, cứ khá vống lên. Thế là tên cậu “xếp” Chuyên được dân ngõ Tân-Quỳnh thừa nhận.
Thói quen thật đã ác hại. Nó bắt khớp cả những thớ thịt trắng nõn. Đến Mỹ là cô con gái thơ ngây, không biết khoe khoang là gì, “chưng xướng” là gì mà cũng gọi “anh xếp”, “anh xếp”, thì loài người quả đã đáng tha thứ trong mọi tội lỗi.
*BÀ Ký đang ngồi dựa vào tường, ruỗi thẳng chân, để âu giầu lên đùi, thì bà Mùi vào với một cậu bé chừng mười bẩy, mười tám.
Chẳng đứng dậy, chẳng rụt chân, bà Ký hất hàm hỏi trống không:
– Kìa, bà đã đến đấy à?
– Lạy bà ạ.
Bà Ký chỉ cái phản:
– Ngồi đây, bà.
Bà Mùi sẽ ghé vào ngồi.
Bà Ký hỏi dõng dạc:
– Thế nào, cậu ấy đấy phải không?
– Vâng, thưa bà cháu đấy ạ.
Bà Ký lại chỉ ghế:
– Ngồi kia, cháu.
Rồi bảo bà Mùi:
– Bà cứ ngồi đấy, chờ cậu “xếp” nhà tôi về, nói với cậu ấy, rồi tôi nói hộ cho. Để nó ở nhà, nó chơi bời lêu lổng, hư thân đi.
Bà Mùi cúi đầu kính cẩn như tín đồ nghe giảng thập-điều. Bà nói rất khẽ:
– Vâng, mẹ con cháu đem đầu lại kêu cậu “xếp” và bà. Xin bà thương mẹ con cháu, tác thành cho. Từ ngày thầy cháu mất đi, nhà thanh bạch lắm. Mẹ con cháu lần hồi hôm sớm với nhau. Cháu đỗ được cái bằng Sơ-học vừa rồi; không thể học được nữa, cháu phải kiếm công việc làm. Xin bà nghĩ tình mẹ góa con côi của cháu, giúp cho.
Rồi bà tủi thân, sụt sịt.
Bà Ký an-ủi:
– Tôi đã bảo được là được mà. Chỗ ông nhà ta với cậu cháu, người cũ với nhau, thế nào tôi cũng bảo cậu “xếp” nó giúp bà.
– Vâng, xin bà thương cháu.
– Tôi chỉ sợ cháu còn ít tuổi quá, sợ người ta không nhận,
Bà Mùi đã mừng được một chút, lại lo. Bà thần mặt, van vỉ:
– Xin bà cố thương mẹ con cháu.
Bao giờ chẳng thế, sự vắt-vẻo là thói quen của những tâm hồn thấp kém, khi đắc thế. Sự kêu van tha thiết của bà Mùi không đủ làm cho bà Ký bớt kênh kiệu. Bà chép miệng một cái, nói rất tự nhiên, sự tự nhiên “nhân tạo ” của người mẹ nhờ con được người ta quỵ lụy:
– Bà đây chẳng nói làm gì. Tôi rõ thật khổ, mất ăn mất ngủ về những lời oán thán của các ông, các bà ấy lại đây nhờ vả. Không giúp được người, không đành tâm. Mà giúp các ông, các bà ấy, chỉ sợ thiên hạ người ta ghen ghét.
– Bẩm bà, ai dám ghen ghét.
– Úi chà, bà không biết, những những người họ nhờ vả không được, họ đồn đại cháu tây-vị, đưa người của người nhà vào làm. Rõ thật khổ!
Sự thực, cậu “xếp” của bà Ký cũng chưa đến nỗi bị thiên hạ ta-thán. Vì một lẽ rất giản dị, cậu “xếp” đã đưa ai vào làm, đã giúp được ai.? Chân Ký kho của cậu chưa cho cậu đủ quyền thế làm việc ấy, chẳng qua bà Ký học được vai trò ấy của bà Hảo, nên diễn lại cho bà Mùi, thế thôi.
– Nhưng xin bà, chuyến này bà cố nói giúp với cậu “xếp” cháu. Cháu không dám quên ơn bà.
Thế là cái diều gặp gió, bà Ký thả hết dây:
– Ồ, ơn với huệ gì. Người ta kia cũng chẳng kể ơn huệ nữa là bà.
Rồi bà làm ra bộ bí mật, chỉ cái đồng hồ dạ quang Chuyên mới mua:
– Ngay hôm nọ, một người được cháu cho việc, đem chiếc đồng hồ kia lại biếu. Tôi nhất định bắt đem về, không cho cậu “xếp” nó nhận. Sau người ấy khóc rưng rức, nhất định xin cho được đưa hầu đề làm kỷ-niệm. Không làm thế nào được, tôi đành phải chịu.
– Bẩm bà, người ta lòng thành.
Khoa bổ đạo-nghĩa đã đến độ thiện mỹ:
– Đã đành, người ta lòng thành thật đấy. Nhưng giúp người mà mình lấy thế nó không đang.
Giá chiếc đồng hồ biết nói, nó phải minh oan “thân thế” của nó. Nó sẽ kêu rầm lên là chủ nó đã đại ngôn, đã loè, đã trưng, làm hại “thanh danh” nó….
– Nhưng cậu “xếp” cháu và bà có muốn đâu, bảo không đành.
Bà Ký nhăn mặt một cách thành thực hơn. Thành thực hơn cả những lúc bà bị chứng đau bụng kinh niên hành hạ:
– Ấy thế mới bảo khổ mà lại. Lắm lúc bị các ông, các bà ấy biếu xén, tôi phải đóng cửa, nói thác là đi vắng.
Nói xong, bà lại làm bộ nhân từ. Cũng vẫn là nhân từ đúng hiệu mới chết chứ:
– Nhưng làm thế, lại sợ các ông, các bà ấy cho là mình không thương cho trót.
Hỡi ơi! Hạnh-phúc của loài người rẻ thật. Nếu không để mua lấy một vài phút sướng khoái, người ta ai đã mất công đặt chuyện như thế. Triết lý sâu xa của những kẻ hay lên mình, có lẽ là: “ không được hưởng bằng việc, hưởng bằng tưởng tượng ”.
Giữa lúc bà Ký đang lên “râu” với người đến cầu cạnh mình thì một hồi chuông inh ỏi báo tin con bà về.
Bà Ký vội xua tay ra hiệu cho bà Mùi im. Rồi nghiêm trọng, bà chỉ tay ra ngoài, nói khẽ. Bà làm như các tổng-lý suỵt nhau, khi quan sở-tại đến:
– Cậu “xếp” nó đã về.
Bà Mùi vội đứng dậy. Bà khép nép như người vào cung đường.
Chuyên, đầu bóng nhẫy, trên yên xe nhẩy xuống. Bà Ký gọi vang:
– Bếp, ra đón xe cậu!
Một thằng bé chưa đủ “tư cách” làm thằng nhỏ, tóc mai hình câu liêm xuống gần cằm, chạy ra đỡ xe cho Chuyên.
Bà Ký đã mạ cho thằng nhỏ lượt kền thằng bếp. Thực ra, bà nhặt được nó ở máy nước. Và nó cũng chỉ đến với bà với “chức-phận” thằng nhỏ. Nhưng ở nhà giầu, hầu quan lớn, bà Ký nhất định bắt nó phải chịu cái tiếng “bếp” để cho nó sang. Không phải bà muốn “ thành nhân chi mỹ ”, phong chức cho nó, để nó mở mày mở mặt với bạn đồng nghiệp. Không, không phải thế, bà lên chức cho nó để lên chức cho bà, lên chức cho cậu “xếp” nó.
Gọi thằng bếp, bao giờ nó chẳng oai vệ hơn gọi thằng nhỏ. Bà Ký, ngoài sự khoác cho nó cái tên to, lại còn khoác cho nó cái áo to tướng của cậu “xếp” nữa. Và bà đã thành công, khi trông thấy thằng nhỏ nhà bà ra phết cậu bếp lắm.
Chuyên vừa bước chân vào cửa, bà Mùi vái chàng như vái vị đại thần:
– Lay… ông ạ
Bà Ký giới thiệu:
– Đây là bà Mùi mà tôi nói chuyện với cậu hôm nọ. Bà ấy có thằng cháu….
Chuyên gật lấy gật để.
Bà Mùi từ tốn:
– Thưa ông, mẹ con cháu lại nhờ ông, xin ông nghĩ tình… thương cháu.
Chuyên chỉ ghế cho bà Mùi ngồi:
– Vâng, mợ tôi đã nói chuyện, tôi đã hiểu.
Rồi chỉ Thọ:
– Cậu ấy đây phải không?
– Bẩm ông vâng.
Chuyên bảo:
– Được rồi, thế nào tôi cũng giúp cậu.
Bà Ký hởi lòng, vì con bà ra dáng ông xếp lắm. Bà ba hoa:
– Này, chỉ ít lâu là có việc ngay đấy mà.
Bà Mùi, vì đã gọi Chuyên bằng ông nên lúng túng mãi mới thốt được:
– Bẩm… Cố, xin… Cố thương.
Ngày xưa, có anh đánh xe cho thừa tướng, vênh vang khi thấy người ta chào chủ mình.
Ngày xưa, lại có con lừa mang hòm sắc, hí hửng khi thiên hạ lễ hòm sắc.
Tất nhiên phải có bà Ký, tục danh là Huyền, dám nhận tiếng “Cố” không một chút e lệ, không một chút ngượng ngập. Vì nếu e lệ, ngượng ngập, bà đã chẳng dám nói tiếp ngay. Lần này, tự nhiên giọng bà khề khà, già đi:
– Ấy, rồi cậu “xếp” nó cất nhắc cho, chẳng mấy nỗi thành người. Gập thầy, gập bạn, mấy chốc mà nên… ông.
Bá Mùi vụt một nét mừng:
– Bẩm. “Cố” và ông “xếp”, sau này cháu “hiển đạt”, cháu xin kết cỏ ngậm vành.
Bà Ký xua tay:
– Cứ thấy cháu có cơm ăn là tôi mừng rồi.
Nhà thi sĩ muôn thuở Nguyễn-Du đã hiểu nhân-tâm thế-đạo lắm mới đặt nổi câu: “ Khác màu kẻ lịch người thanh ” để đánh cái dấu ô trọc vào đầu những kẻ làm ra “ ta đây ”.
Bà Ký, dù phút này nhất tự cách trùng lên chức “Cố”, nhưng cái ruột của bà là ruột mèo thì không thể nào thẳng như ruột ngựa được, nên bà đã nói đến chữ “cơm” một cách sống sượng như thế. Bà Mùi thấy bà Ký gọi thằng bếp giục hâm canh, biết ý ngay, vội chắp tay vái “Cố” và vái “ông xếp” một vái, xin cáo từ.
Đưa bà Mùi ra tận cửa, bà Ký cố ý nói to cho hàng xóm nghe tiếng:
– Được, bà cứ yên tâm mà về, thế nào cậu “xếp” nó cũng giúp cháu. Bà là người cũ, chẳng giúp bà, giúp ai.
Hôm sau, vừa đúng mười hai giờ trưa, nghĩa là Chuyên đang ăn cơm, bà Mùi lại đến. Bà vội nói ngay:
– Thưa ông, khi trước thầy cháu mất đi, có để lại cái bút máy quý lắm. Sáu bẩy năm nay, tôi không đưa cho ai viết cả. Bây giờ xin đem dâng ông. Gọi là thế, xin ông chấp nhận cho.
Bà Ký phổng mũi, không phải vì được lễ-lạt. Bà phổng mũi vì bà Mùi đã dùng những danh từ quá kính cẩn đổi với “cậu xếp” nhà bà.
Chuyên thoáng trông cái bút, mừng rơn, nhưng còn làm bộ xua tay, nguây nguẩy:
– Tôi đã bảo bà mà, sao bà lại vẽ vời
Bà Mùi lại có dịp tán tụng:
– Bẩm, ông chẳng thiếu gì, gọi là thế, của thầy cháu để lại, xin ông thu nhận cho.
Chuyên thích cái bút lắm rồi, nhưng lấy ngay sợ không tiện. Mà từ chối, thành ra khách sáo quá cũng ngượng. Chàng bèn nghĩ ra một cách, quay với cái bút màu hung đỏ của chàng, chàng giơ cho bà Mùi xem:
– Đây tôi đã có rồi, nhưng bà đã thành tâm cho, tôi xin nhận.
Bà Ký hùa theo:
– Không có bà lại bảo là chê.
Rồi giao hẹn ngay:
– Nhưng chỗ …Tôi nói trước cho bà biết, nếu lần sau, bà còn cho gì nữa, tôi không bằng lòng đâu.
Đáng nhẽ bà Ký nói “chỗ chị em”, song bà sợ nó giảm mất oai đi, bèn để lửng.
Khi bà Mùi đi khỏi, bà Ký bèn bảo Chuyên:
– Cậu xem có việc gì kiếm được tháng mươi lăm đồng, giúp cho nó một việc.
Chuyên làm bộ nghĩ ngợi, vỗ vỗ trán:
– Việc thì khó lắm.
Bà Ký thừa hiểu khó lắm rồi, nhưng bà cứ hỏi thế. Thói quen của lưỡi cũng là một thứ gì ghê gớm lắm. Chẳng thế đã có kẻ viện người bên cạnh để thề cho người ta tin mà kỳ thực, cái người đứng bắc cầu ấy cũng biết là dối trá.
– Đành khó rồi, nhưng giá cậu nói với bạn bè xin cho nó thì tốt quá. Nhà nó cũng nghèo. Bà ta buôn cam ở chợ Mơ đấy mà. Ông ta trước bạn với cậu đấy mà.
Chuyên chặc lưỡi:
– Đành thế, nhưng làm thế nào được?
Thấy mẹ tần ngần, Chuyên lại nói đỡ:
– Để con xem, may ra biết đâu!
*HOÀNG-THIÊN không phụ người tốt, Không biết phúc nhà bà Mùi đến hay may cho bà Ký, một hôm Chuyên đi làm về, chàng vênh váo, gọi mẹ ầm ĩ:
– Mợ, mợ ra con bảo cái này. Hay lắm, hay lắm!
Bà Ký đang kho cá dở, ở trong bếp chạy ra:
– Gì thế cậu, được tăng lương phải không?
– Không, làm gì mà tăng lương. Con tìm được việc cho thằng Thọ rồi. Tháng mười lăm đồng. Ký hòm, ký hòm, mợ ạ.
Bà Ký xoa tay nọ vào tay kia, chùi nhọ nồi dính tay:
– Thế à, may nhỉ! Để cho gọi mẹ con nhà bà ta lại.
Rồi bà hỏi nhỏ con:
– Thế cậu xin được, hay ai?
Chuyên chỉ vào ngực:
– Con chứ lại còn ai nữa.
Bà Ký nghiêng mặt:
– Thế cơ à? Đấy, mợ đã bảo mà. Nói có sai đâu. Thế nào cũng được mà lại. Để bảo thằng bếp nó lại tìm bà ấy.
– Chân này nhàn lắm.
– Chân gì, con?
– Ký hòm.
– Ký hòm là thế nào?
– Ký nhận các hòm thợ mộc bên xưởng đóng xong đưa sang.
– Thế để cho gọi bà ta lại nhé?
– Vâng, mợ cho gọi đi.
Bà Ký gọi bếp luôn, bà dặn nó rất cẩn thận, dặn đi dặn lại mãi:
– Nhớ thưa gửi cho lễ phép, nghe không?
Bà dặn nó lễ phép đây là lễ phép với “ông xếp” nó chứ không phải với khách.
– Mày phải nói thế này này: Bà con và “cậu xếp ” con cho con lại mời bà.
Rồi vỗ vào đầu nó:
– Nếu bà ấy có hỏi việc gì, khai là không biết, nghe không? Mày đi đến đâu, phải ăn nói cho ra đứa ở nhà tử tế. Chứ đừng có cấc lấc, người ta cười tao đấy. Nhập gia tùy tục, ở nhà sang, phải thưa gửi tử tế.
Bây giờ bà Ký không sợ gì mà chẳng nhận công khai danh-giá (?) của bà, của con bà nữa. Chính bà, bà không thấy ngượng mồm khi nói đến “cậu xếp”, “tác thành”, “nhờ vả”. Bà nhận từ trong lòng sâu, phẩm giá (!) của bà.
Thằng bếp đi được một lúc, bà mới sực nhớ đến nó không mặc cái áo tây vào. Bà vỗ đùi đôm đốp:
– Thằng khốn nạn thế! Có cái áo lại chẳng mặc vào cho nó ra vẻ con người.
Vẻ con người, bà có thiết gì đến cái vẻ của thằng “trời đánh” ấy. Sự nó không mặc cái áo tây vào thiệt đến “quyền-lợi” của bà. Bà tức tối, thằng “trời đánh” đã “bêu xấu bêu hổ” bà.
Cho nên khi nó về vừa thấy mặt nó, bà tru tréo ngay:
– Thằng khốn nạn kia, trời đánh mày hay sao, mày đi đâu như thằng ăn cắp!
Thằng “bếp” há hốc miệng, nó giương mắt:
–????
– Mầy lại trợn mắt lên với bà à!
Rồi bà xông lại, đập vào vai, vào mũ chan chát:
– Này trợn mắt này, này hỗn này!
Nó ôm đầu, kêu ầm nhà:
– Lạy bà, con làm gì đâu ạ?
Bà Ký mặt đỏ rừ, thở hồng hộc:
– Mày đi ăn cướp à, sao áo tây mày không mặc?
Bị đòn, nhưng thằng bếp không kêu nữa, nó có cái khoái của kẻ được “yêu”, tuy được “yêu” cái lối ấy, khí thiệt thòi.
– Thưa bà, áo con đưa thợ giặt ạ.
Bà Ký “nghỉ” tay, bà hổn hển:
– Thói phép nhà ai, mày lại nhà người ta, mày ăn mặc như đồ ăn cắp. Mày không biết, “chó gầy hổ mặt người nuôi” à? Người ta bảo tao nghèo, không cho mầy ăn mặc lành lặn, có phải không?
Chĩa vào tận mặt nó:
– Mày xem thằng bếp bên ông Phán mười hai, nó ra ngoài có ra dáng con người không nào. Mà mày, áo có, mày không mặc, mày bôi gio bọ chấu.
Thằng bếp “tỉnh” người sau những cái tát nẩy lửa. Nó “tỉnh” người, vì lòng mát rợi. Nó không ngờ chủ nó lại thương nó quá như thế. Nó không ngờ trên đời lại có người muốn cho nó “sang trọng” như thế. Chả bù với chú nó, hồi nuôi nó, ngày nào cũng như ngày nào, luôn san sát với nó, vì hay “diện”. À, ra họ hàng thân thích, hỏng, có người nào thương nó, lo ăn lo mặc cho nó đâu!
Cho nên mắt nó ráo hoảnh ngay, lùi lũi xuống bếp, không hề sụt sịt như mọi khi.Nó đi gần đến bếp, bà Ký còn quát theo:
– Muốn sống, chốc nữa ra thợ giặt lấy áo về, không tao băm xác mày ra!
*Bà Mùi hấp tấp đến với con:
– Lạy bà ạ.
– Không dám, bà ngồi.
Lúc bấy giờ Chuyên còn ngủ trưa, nên bà Ký nhìn vào buồng:
– Cậu xếp nó còn nghỉ.
Bà Mùi cúi đầu:
– Vâng.
Nhặt một miếng giầu đưa bà Mùi, bà Ký cười bảo:
– Số bà và cháu may thật. Cậu “xếp” nó vừa bảo tôi, đã tìm cho cháu được một chân.
– Dạ.
Bà Ký gật gù:
– Lại chân Ký cơ đấy nhé!
– Dạ, vâng ạ.
– Thôi, chịu khó đi làm giúp đỡ mẹ, cậu nghe chưa?
– Thưa bà vâng ạ.
– Rồi có cậu “ xếp” đấy, cậu “xếp” cất nhắc cho. Cậu cháu dắt díu nhau.
– Dạ, vâng ạ.
– Nhưng đi làm, phải cho nó ngoan ngoãn. Ai nói đông nói tây gì cũng mặc. Cứ việc mà làm. Và thứ nhất đừng có táy máy, đừng có gian tham, của đâu bỏ đấy.
– Vâng ạ.
– Người ta cứ ngay thật, của ai vứt ra đấy cũng mặc. Không rồi lại để khổ cho cậu “xếp” nó, không được đâu.
– Vâng ạ.
– Người ta ai cũng thế. Thế gian chuộng của chuộng công, nào ai có chuộng người không bao giờ. Phải chăm chỉ làm ăn, thực thà, ngay thẳng. Chủ nào chả phải yêu.
– Vâng ạ.
– Gọi dạ bảo vâng, cái nghề ma cũ hay bắt nạt ma mới, mình sinh sau đẻ muộn (?), mình phải trên kính dưới nhường.
– Vâng ạ.
– Ai bảo gì cũng phải nghe. Đừng có bướng. Đi làm mà bướng thì về đuổi gà cho vợ sớm.
– Vâng ạ.
-Thứ nhất, ai người ta làm gì mặc người ta, đừng có lôi thôi.
– Vâng ạ!
Chưa chi bà Ký đã dạy “ luân lý ” Thọ. Bà nói như cái máy, nói rặt những luân thường đạo lý cả. Nhưng sa-lông, cái tủ “búp phê” mới, cái đồng hồ để bàn, cả đến đôi hoa tai xệ xuống ở tai bà, cả đến cái áo the la-cả nữa, tất cả từng ấy thứ đã phản đối bà. Vì hỡi ơi! số lương ba mươi đồng bạc của Chuyên lại đóng họ mất hai phần ba, làm gì cho bà Ký được những thứ ấy? Đời Ký kho của Chuyên cần phải cãi chính lời bà.
Thọ chỉ biết vâng, tuy nếu có con mắt tinh vi, con mắt của thiên-lý-kính, ta sẽ nhận thấy phớt một mầu hồng trên khuôn mặt bầu bĩnh của Thọ. Mầu hồng ấy không phải mầu sung sướng. Đây là tí hồng của kẻ ngay thẳng khi lòng tự ái bị giày xéo.
Bà Mùi để bà Ký nói một tràng, nhỏ nhẻ:
– Thưa bà, cháu chỉ phải tội nghèo thôi. Chứ cháu, từ bé đến giờ không gian tham của ai cái gì cả. Tôi không như người ta ạ. Tôi mà thấy ai ăn cắp ăn nẩy của ông cả bà lớn nào đem về nhà là tôi đánh cho chết, tôi đem giả tận nhà ngay, không dung túng được những sự xằng bậy.
– Phải thế mới được, chứ bé không vin, cả gẫy cành.
– Thưa vâng ạ, bà và ông “xếp” đã thương xin việc cho cháu, đời nào cháu lại dám để tai để tiếng cho ông “xếp” cháu.
Có tiếng sột soạt, trong buồng. Bà Ký vội né mình ra chỗ bàn uống nước, khẽ gọi, gọi trong cổ họng:
– Bếp!
Thằng bếp chạy lên, bà Ký chỉ cái thau. Vẫn bằng một giọng rất khẽ, bà bảo:
– Lấy nước, cậu rửa mặt. Cậu đã dậy đấy.
*Chuyên ngồi bắt chân chữ ngũ, hỏi:
– Bà lại bao giờ?
– Bẩm ông, cháu vừa đến hầu ông.
Chàng nhìn sang đồng hồ, rồi đưa chân kều giầy, vừa xỏ, chàng vừa nói:
– Tôi đã xin được việc cho cháu rồi đấy. Lương tháng mười lăm đồng. Chân Ký này, có người đã chạy tôi trăm bạc, nhưng nghĩ tình bà và thương cháu, tôi không nhận nhời đằng kia, tôi giúp cho cháu. Bà bảo cháu sắm sửa đi. Mai lại sở tôi, tôi đưa vào với ông xếp.
Quay bảo Thọ:
– Mai đem cả cái bằng đi, nghe không?
– Thưa ông vâng.
– Đem cả cái bằng đi, để tôi nói cho dễ.
Bà Mùi lại lo:
– Thưa ông, thế ông đã nói… cho cháu rồi ạ.
– À, nói rồi, nhưng cũng phải đem bằng chứ. Làm Ký chứ có phải Cai cú, bảo không cần bằng.
Bà Mùi quay dặn con:
– Mai phải nhớ nhé!
– Vâng.
Chuyên mở ngăn kéo, lấy đồng hồ đeo vào tay một cách oai vệ. Đeo xong, chàng lại đưa lên tai nghe:
– Gần hai giờ rồi, tôi phải đi làm. Thôi, cứ thế.
Bà Ký như tiếng còi, hét vang:
– Thằng bếp đâu, lấy xe cậu!
Thằng bếp lại nghễu nghện vác cái xe “cuốc” của chủ ra. Khi Chuyên đi khỏi, bà Ký trề môi, chỉ theo:
– Hôm nay, thế là đi chậm mất nửa giờ đấy. Không phải tay “tai mặt” trong sở, cứ đến thế là có chuyện đấy.
Lại chỉ Thọ, bà bảo:
– Cháu có đi làm, phải đi cho đúng giờ. Mình là chân mới, mình phải chăm, không thể bì với cậu ấy được. Sau này, sống lâu lên lão làng, mới có thể “ngang dọc” được, nghe chưa.
– Vâng ạ.
– Bảo thì phải nhớ. Thời buổi này, tìm được việc khó lắm, không dễ đâu. Việc thì khối đấy, nhưng ai tìm cho mới được chứ?
Rồi chỉ tay sang bên cạnh, hạ giọng:
– Nhà cậu Tú bên này, thân-danh tú-tài mà nằm nhà hàng năm đấy, tưởng dễ đâu. Ấy là nhà người ta cũng “danh giá”, con ông cháu cha đấy, chứ kém ai. Cũng chú tri-huyện, bác tham-tá cả đấy, mà có cậu cháu đành thúc thủ đấy.
Bà Mùi thấy thế càng khúm núm:
– Thưa bà, thật phúc nhà cháu.
– Cho nên, tôi vẫn bảo cậu “xếp” nó thế nào cũng phải tìm cho cháu một việc để nó độ cái thân. Chứ phi tay cậu “xếp” nó, ai là người có thể đương nổi việc nầy.
Bà Mùi xuýt xoa:
– Bà tác phúc cho cháu, thật nhà cháu đội ơn bà vạn bội.