Chặt Xích

Chặt Xích

Tổng số chương: 4

CHUYÊN cúi gằm mặt, tay cầm bút chì vạch vạch xuống giấy. Cứ trông cái môi mím chặt, mắt gườm gườm, tay nổi gân vì vạch quá mạnh, người ta biết ngay chàng đang phẫn chí. Kể có hàng mấy tháng nay, hàng gần năm nay, bà Ký hễ bực mình chuyện cửa chuyện nhà, chuyện họ chuyện hàng, chuyện gạo chuyện nước, lại lôi con ra rỉa rách:

– Chả chịu làm ăn gì, rồi đến chết đói. Đời thuở nhà ai, con bằng đầu bằng cổ vẫn ở nhà ăn bám mẹ. Tôi mà chết đi, chẳng biết cậu làm gì nên ăn? Rồi cũng đến cũng rạ nhà này một bữa, rạ nhà kia một bữa, hết đời thôi.

Bà Ký ngừng tay xỉa răng, uống một ngụm nước, súc súc, rồi đứng dậy, cầm cái ống nhổ, nhả bụm nước vào đấy. Rồi giơ cả ống nhổ ngang mặt, bà hỏi con:

– Đấy, anh cứ xem, tôi nói ra mang tiếng riếc móc, “ghẻ lạnh” anh. Con giai từng ấy tuổi đầu, ru rú xó nhà, chẳng chịu nhờ chúng nhờ bạn, xem có công việc gì mà làm.

Rồi chĩa sang Chuyên:

– Thế tôi hỏi anh, ngộ tôi không chạy được nuôi anh, anh làm thế nào? Chẳng nhẽ anh to xác thế kia lại đi ăn chực mỗi nhà một bữa à?

Rồi lại cười khẩy như xỉa vào mặt Chuyên:

– Thời buổi này, cũng chả ai thừa cơm thừa gạo mà ăn chực.

Chuyên, mặt tím bầm, dằn dỗi đứng dậy:

– Mợ để rồi con đi làm, việc gì mợ phải nói con thậm tệ thế. Sao hồi tháng giêng, con xin mợ ra Hòn-gay làm, mợ lại không cho?

Bà Ký đứng lặng người, mặt chua như giấm, bà hếch nhìn con, trong cái nhìn có cả một câu hỏi:

– Mặt tôi mặt anh, tôi giữ anh làm gì? Anh có chân thì anh đi.

Để rồi lại tự trả lời bằng một cái nhìn nó cắt nghĩa cái nghĩa: Ông Hạng chửa, ườn xác ra, lại còn… Nào ai cấm anh?

Chuyên phẫn chí, nói liều một câu:

– Được rồi, từ giờ giở đi, con không ở nhà để làm phiền lòng mợ nữa.

Bà Ký chẳng những không sợ câu dọa ấy, còn cáu kỉnh thách thức. Nhưng thách thức cái lối “cao-thượng”:

– Hừ, thế thì còn gì bằng, còn gì tốt bằng. Phải đấy, con giai cũng nên tức khí xem nào!

Tức khí, bà Kỹ đã dùng chữ không ở nghĩa của nó. À, nếu là con giai thì lại càng không nên tức khí theo lối biểu của bà Ký.

Chuyên dằn dỗi:

– Mợ cứ để mặc con, con đi ngay hồi tháng giêng có phải mợ đỡ phải lo lắng.

Chuyên gần muốn ứa nước mắt, chàng nuốt đánh ực chất chua đưa lên cổ:

– Con không muốn ăn hại mợ đâu. Con đã cạy cục mãi không được. Giá mợ chạy cho con thì đâu đến nỗi…

Bà Ký ối chào một cái, rồi thở phào:

– Anh cứ nói như trrạng ấy. Tôi vay ở đâu ra của, bảo chạy cho anh? Anh tưởng tôi sung sướng lắm đấy. Thầy anh cho tôi một tháng bốn chục, anh liệu xem có đủ không? Anh chẳng thương tôi đầu hôm ban sớm, lại còn oán tôi. Nếu tôi có tiền chạy việc cho anh thì tôi đã chẳng đến nỗi…Anh như người ta, biết bố mẹ nghèo, cố van ông lạy bà, nhờ người này người khác, may ra có việc đấy. Nhưng anh khệnh khạng như ông Hạng, anh có chịu nói khó với ai. Chỗ nào đứng đắn, anh lang lảng như chó phải dùi, anh có dám bén mảng đến đâu.

Thịt muốn vỡ ra từng mảng. Chuyên bị mẹ riếc móc, uất. Chàng nghĩ bụng giá có can đảm đập ngay đầu vào cột nhà cho tan óc thì liều ngay. Còn hơn sống, ngày nào cũng như ngày nào đi thì chớ, hễ về nhà là bị mẹ “gây sự”, “diễn thuyết”. Ngày nào cũng như ngày nào, chàng bị đay nghiến bằng đủ thứ lời, đủ thứ tiếng. Lời nào cũng có tính cách lưỡi dao mỏng dính lướt vào thịt. Tiếng nào cũng có trọng lượng một miếng chì gieo vào ngực chàng. Chàng biết thâm ý của mẹ, bà Ký chủ-trương — điều này bà vẫn nói với hàng xóm và coi như đắc sách — cứ nói bắn máu mắt nó ra là tự khắc nó phải đi tìm việc. Biết thế, cho nên chàng khổ sở lắm khi chưa tìm được việc, khi vẫn, phải ngày hai bữa ăn nhờ mẹ.

Nhưng người ta ở đời chỉ đau những cái biết, đau ở chỗ biết đấy mà chết đấy. Chuyên muốn, giá lúc ấy có tài của Đậu-Nhất-Hổ, chàng độn thổ để khỏi chịu lời cay đắng của mẹ. Vì không có tài của Đậu-Nhất-Hổ, chàng đành phải ngồi lì để chịu “mưa sa gió táp”. Cái nghề con người ta khi đã thất thế, nhất cái thế ấy xảy trên đồng tiền, còn dám nói gì nữa. Mà cái mặt của anh chàng bám, phàm bị sỉ-vã không thể hả miệng, mới đáng ghét làm sào. Gần như không phải là cái mặt nữa, cho nên người mắng nó mới không tiếc lời! Tiếc lời, đã không “hạ-độc-thủ” đến thế.

– Mợ cứ yên tâm. Trong tháng này, thế nào con cũng cố cạy cục…

Bà Ký cười chua chát, sau một cái cười chết người, cái cười xiên vào ruột:

– Được, tôi xem phen này anh cạy cục thế nào.

Rồi bà thủ thế ngay:

– Nhưng anh cạy cục thế nào thì cạy cục, chứ tiền thì tôi không có đâu.

– Vâng con biết ạ.

Chuyên gieo câu ấy với một thứ tiếng chết chóc.

Một giờ đồng hồ sau, trò “tùng xẻo” lại diễn một lớp nữa. Vì là bữa cơm, cô Mỹ- con gái bà Ký, em gái Chuyên — so đũa xong, mời:

– Cậu mợ lại xơi cơm.

Ông ký Huyền, bà ký Huyền đều đứng dậy ra mâm. Chỉ có Chuyên, chàng vẫn ngồi lì ở bàn. Bà Ký chặc lưỡi:

– Có sang ăn nhân thể không, cậu Chuyên. Hay còn mải nghĩ?

Trong câu nói này, Chuyên nhận thấy có một cái gì ghẻ lạnh ở trong, chàng thấy rực lên, bụng thót lại. Giá có thể giả lời phắt không ăn, chàng đã nói ngay. Nhưng coi chừng, nếu thế,, mẹ chàng sẽ cười nhạt như mọi ngày, và nhắc lại câu chết cây gẫy cành:

– Không ăn thì ăn ở đâu? Thôi, làm tạm vài lưng, rồi có nhởn nhơ mới nhởn nhơ được.

Cho nên dù chết cay chết đắng, chàng cũng phải lê lại mâm. Phải nói lê mới đúng. Chỉ từ bàn ra mâm, một “con đường” dài không đầy ba thước mà là cả một đoạn trường. Phải được chứng kiến tên cướp bị đâm xẻ thịt, nằm chết giấc vẫn phải cố cắn răng bò dậy, lê về phía bụi rậm để tránh tuần tráng sục tìm, mới hiểu được tâm-trạng Chuyên lúc ấy.

Bà Ký đã cầm đũa lại bỏ xuống, bảo Mỹ:

– Ngồi xê vào cho cậu ấy ngồi.

Mỹ ngước nhìn anh, ái ngại:

– Anh ngồi trong để em ngồi ngoài, em xới cơm.

Chuyên định vào trong, nhưng vừa rón chân lên giường, bà Ký đã gắt Mỹ:

– Thì cô cứ để anh cô ngồi ngoài đã làm sao. Anh cô không xới được à!

Chuyên khổ sở lắm, chàng chịu điêu đứng từ ngày mất việc một sở buôn. Từ ngày tay ngai lỏng, lĩnh tháng lương cuối cùng, chàng bị bà Ký trù tợn. Không phải bà Ký không thương chàng. Có người mẹ nào lại chẳng thương con. Nhưng bà Ký thương cái lối của bà. Nghĩa là phải nói cho bắn máu mắt, nói cho thật tủi nhục, con bà mới chịu đi tìm việc. Mà có tìm việc thì rồi mới tính đến chuyện vợ con được. Hai mươi ba tuổi đầu rồi, liên biên không vợ con, định làm “ma-cà-bông” à! Không biết bà đã hiểu nghĩa chữ “ma-cà-bông” thế nào, bà lại gán nó cho kẻ không có vợ.

Cho nên ngồi đâu, đứng đâu, cứ thấy mặt Chuyên là bà bắt đầu cái công việc đẩy tầu ra đà. Bà nói, nói ghê lắm, càng tìm được những câu như xỉa vào ruột con, bà càng thích. Thích ở chỗ đã làm được con phẫn chí. Vì theo bà, người ta bất phẫn bất phát là vô-tích-sự, là suốt đời không mọc mũi sủi tăm.

Những bữa cơm, bao giờ cũng thế, là thì giờ thuận tiện nhất cho sự “tấn công” của bà. Tuy bà chẳng đọc những sách triết lý phân tách lòng người, song bà hiểu sâu xa cái nhục của miếng ăn. Bà cho chỉ có sỉ nhục về miếng ăn mới chóng kết quả làm cho Chuyên phẫn chí.

Cho nên khi Chuyên vừa và được một miếng, bà nói ngay:

– Đi đến đâu, các ông các bà ấy cũng hỏi thăm cậu Cả làm đâu. Mình rõ bẽ cả mặt. Chả nhẽ lại nói dối.

Rồi, bà chép miệng:

– Dối người ta thì được đấy, nhưng lúc người ta đến nhà, người ta thấy “cậu Cả” ngồi lù lù, người ta cười cho. Cho nên, dù xấu hổ cũng vẫn phải gượng đáp:“Cháu vẫn ở nhà ạ”.

Chuyên biết giờ hành hình sắp đến, chàng buốt ruột quá. Cơm rẻo là thế, mà chàng tưởng như và sỏi. Chàng lại nghe cả thấy tiếng kêu lạo xạo nữa. Giá có thể ăn xong bát ấy đứng dậy được, chàng đã chẳng còn ngồi. Nhưng không, dấu hiệu phản kháng ấy sẽ làm cho bà Ký thịnh nộ ngay. Chàng đã bị mãi rồi.

Bà Ký tiếp luôn mũi dùi nữa:

– Ấy, ông anh cứ ở nhà đuổi gà mãi, cô em rồi đến ế chồng. Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống (?). Ai người ta dại gì, người ta hỏi em ông thất nghiệp.

Rồi bà vừa cười, vừa bảo con gái:

– Cô có phải ở nhà đến già, đừng có oán anh.

Ông Ký biết điều hơn, ông nhìn vợ mấy lần để bà Ký im đi. Nhưng bà Ký có im cho đâu. Lòng thương con (!) buộc bà phải nói, nói mãi. Nói kỳ cùng cái ngửa, cho đến khi nào “tìm” được việc cho con thì thôi. Thấy vợ không ngớt cơn mưa đổ, ông Ký bèn can-thiệp. Nghĩa là ông “đàn-giải” để bênh vực con:

– Công việc, mỗi lúc tìm được đâu. Phải dần dà chứ. Đến ngay tôi, làm sở mấy chục năm cũng không tìm được cho nó nữa là.

Khi người ta đã chủ tâm làm một việc gì, ai hơi chạm vào, người ta tru tréo lên ngay. Bà Ký đời nào chịu để chồng bà “dung túng” cho con thế. Bà liền, áp ngay, áp thẳng thừng:

– Hừ, ông lại nối giáo cho giặc thế thì chết. Ông lại rướn cậu ấy lên, cậu ấy lại nằm ăn vạ tôi hàng năm. Tôi lấy gạo đâu tôi nuôi?

Chuyên biết trước thế nào mẹ chàng cũng bổ cho chàng một búa lớn, khi thấy cha nói đỡ hộ. Ý chừng ông Ký biết nói nữa chỉ tổ làm ngòi cho vợ châm, đành phải thôi. Nhưng ông sợ vợ ông chưa tha, bèn hỏi bà một câu để dắt câu chuyện về phía khác:

– Mợ xem có ai bán “sa-lông”, mợ bảo tôi nhé.

Bà Ký đặt bát, ngẩng nhìn ông một cách ngạc nhiên:

– Cậu mua “sa-lông”?

Chắc ông Ký cảm thấy câu hỏi ấy nó có tính cách châm biếm bèn đấu dịu:

– À, bác Trung bác ấy nhờ đấy chứ, tôi thì mua làm gì!

Bà Ký à một tiếng lạnh gáy:

– Lại tưởng cậu định mua nữa. Thôi để khi nào “cậu Cả” đi làm, rồi hãy tính đến những việc ấy. Chứ bây giờ, giá có“sa-lông” cũng chẳng có chỗ bầy.

Cái tài của bà Ký là không cứ trường hợp nào, bà cũng có thể lợi dụng để “dạy” con.

Chuyên ăn vội cho có thể đứng dậy một cách nhanh chóng. Chàng thấy nếu không thoát ngay nơi “chiến-địa”, sẽ phải ngã gục bây giờ. Hết bát thứ hai, chàng đứng dậy. Bất hạnh cho chàng, cô em gái lại hỏi một câu để đến nỗi chàng lại bị một búa nữa. Mà bao giờ chả thế. Búa cuối cùng vẫn nặng hơn.

– Sao anh ăn ít thế? Mới có hai bát.

Bà Ký mắng con gái để vùi con trai:

– Lên đồn xuống phủ gì mà chẳng ăn ít. Thử đi làm xem, lại không đánh thùng bất chi thình. Cái nghề không làm ăn gì nó trệ người, không ăn được.

Bà đả động cả đến luật vận động. Bà cắt nghĩa sự không ăn được để nhả ra cái nghĩa vô công rồi nghề của con bà.

Cái khổ vô cùng chi khổ của Chuyên là ăn xong mà đi thì bị mẹ mắng:“Vơ váo xong dăm ba bát, mắt trước mắt sau là rểnh” Gian nhà hẹp lòng quá, thành thử đứng đâu, ngồi đâu cũng chần chần, không thoát đuợc phải đối diện với mẹ. Mà mỗi khi để bà Ký trông thấy thì lập tức bà nói. Miếng đá nam châm ấy cứ thấy sắt là hút. Chả lẽ chàng lại xuống bếp cho khuất mắt. Nhiều bận, không thể chịu nổi, chàng cũng đã xuống bếp đấy. Nhưng bà Ký có tha đâu, bà gọi móc lên để lại nện cho một câu:

– Con giai, cái lệ đâu lại cứ chúi xuống bếp. Chẳng trách được, suốt đời…

*

KHÔNG biết người xưa đã hiểu sâu xa đến thế nào về hai chữ rủi may để có thể nói: “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”, Chuyên, chàng hiểu lắm, hiểu hơn ai hết, vì cái họa chàng chịu với mẹ không “đơn chí” mấy khi thật. Nhiều bận lắm rồi, nhiều lắm rồi.

Đã tưởng cơn sấm chớp lời tắt sau khi Mỹ bưng mâm xuống bếp. Ai ngờ một bà béo phục phịch lại chơi. Bà cầm nải chuối tây, quả to bằng... cổ tay bà. Bà cười sị đôi má:

– Thầy cháu bảo đem sang biếu ông bà.

Kéo ghế cho bạn ngồi, bà Ký hỏi:

– Ở đâu có của quý thế này, bà chị?

Một nụ cười hợm-hĩnh, bà ta trả lời:

– Ấy, anh cháu xin việc hộ người ta, người ta đem biếu đấy ạ.

Thôi thế là chết, chết không còn kịp ngáp! Chuyên, trống ngực đập thình thình. Tai họa sắp đến cho chàng đây. Quả nhiên đúng, bà Ký không giữ thể diện cho con, nói đốp ngay:

– Đấy cậu xem, cậu “xếp” bên ấy cũng bằng tuổi cậu mà danh giá thế đấy. Rõ thật mua tiếng mua tăm cho bố mẹ. Còn cậu thì sì sị suốt ngày … Chẳng chịu thương chịu khó…

Bà bạn đã không biết nỗi khổ tâm cho Chuyên, chêm thêm một câu làm cho bà Ký nhìn con một cái nhìn không còn có chữ để tả nữa; chua như giấm, đắng như mướp đắng, cay như vỏ quít.

– Ấy, anh cháu, từ năm ngoái đến nay, giúp được khối đám ra đấy.

Bà Ký đưa trầu vào tận tay bạn, bợ đợ:

– Tôi bảo hôm nào cho cháu sang để nó nói với cậu “xếp” bên nhà xem có việc gì, giúp cháu.

Đã cực nhục chưa! Chuyên tái mặt. Mẹ chàng đã “làm lông” chàng ghê quá. Mẹ chàng không từ một khoảng nào. Đời thủa nhà ai, trước mặt khách, mẹ cũng “hạ nhời” như thế không. Lần này lòng tự ái bị bung nhừ quá,chàng nghiến răng, nghẹn ngào:

– Con đã có chỗ rồi ạ. Con đã gửi đờ-măng, chỉ tháng sau người ta gọi.

Bà Ký còn lạ gì thứ giọng ấy, bà phát tức. Bà không nể nang có mặt khách, nói luôn:

– Này, thôi đi cậu, cậu thì một trăm đờ-măng rồi. Tháng nào cũng đờ-măng, mà tháng nào cũng thất nghiệp.

Rồi quay sang phân vua ngay với bạn:

– Đấy bà xem, cứ dở dở ương ương thế bà bảo làm đâu. Thấy ai là người tử tế, có dám dàn mặt đâu.

Bà bạn tỏ sự tử tế bằng một câu hỏi có tính cách một cái tát:

– Thế cậu có đỗ đạt gì không, để tôi bảo cháu giúp cho.

Khi cổ đã bị chẹn bởi uất ức, ai còn có thể nói được. Gia dĩ người hỏi lại tống thêm một chùy vào gáy. Chuyên chưa kịp đáp, bà Ký lườm con, giục:

– Kìa nói đi, bà hỏi.

Rồi theo luôn hàng chục cái chép miệng.

Vẫn không thấy con “khai-khẩu”, bà Ký nén giận, đáp hộ:

– Cháu đã đỗ “sép phi ca”.

Bà bạn đưa tay ngoẹt môi:

– À, thế thì được.

Đưa tay lên trán, bà nghĩ:

– Cái cậu gì… gì này… con bà Cai Tùy, chẳng đỗ đạt gì cả, cháu cũng xin cho chân coi kho.

Bà Ký vồ ngay:

– Vâng, trăm sự nhờ bà. Bà nói hộ với cậu cháu xem có thể giúp cháu.

Bà bạn, tuy không vênh mặt ta đây kẻ giờ, nhưng trả lời rất hợm:

– Vâng được, đến người ta cha vơ chú vào, cháu còn “tác-thành” cho nữa là cậu ấy đây.

Rồi quay bảo Chuyên:

– Hôm nào rỗi, cậu cứ sang chơi, tôi bảo cháu cho. Chỗ anh em, chẳng giúp nhau, giúp ai. Cậu mà kiếm được việc làm, chúng tôi cũng mừng.

Rồi lại phủ dụ:

– Chịu khó đi làm giúp đỡ cha mẹ, cậu ạ. Tôi thấy bà chật vật, lắm lúc cũng thương. Chị em, cái thể không làm thế nào được, đành phải chịu.

Chuyên nảy đóm mắt, quả tim muốn nhẩy ra khỏi ngực, máu gần như sắp xẻ thịt vọt ra. Trời ơi, người ta lại chửi chàng đến thế này ư! Người ta lại bêu riếu cảnh túng thiếu gia đình chàng quá lắm thế nàv ư! Chàng tưởng chừng bức tường chàng đứng gần sụp, ngói trên mái liệng xuống từng viên nhọn hoắt. Một chất nóng, nóng cái nóng của viên gạch, áp vào má. Nhưng đã bảo khi con người đã thất thế, nhất thất thế vì không kiếm được tiền, còn dám há miệng. Chuyên chết lặng cả, đầu gối run bắn, mồ hôi sau lưng ướt đầm. Cái sơ-mi lụa của ông anh rể thải cho, mà em gái chàng vẫn chê là “sơ-mi thừa tự”, lúc này dán chặt vào thịt bởi lượt hồ mồ hôi. Chàng lừa lúc mẹ chàng tha thiết với bạn, lẻn ra ngoài, miết thẳng một mạch về đầu phố.

*

Chuyên đi một quãng thì có tầu, chàng nhẩy lên. Chàng đưa một hào chỉ để lấy vé. Người bán vé, tay luồn vào tập vé định xé một cái, nhưng mặt vẫn ngẩng chịu chuyện người đàn bà quen. Chuyên nghe thấy bác sơ-vơ đáp trong một cái chặc lưỡi:

– Ở nhà mãi túng lắm, cô ạ, đành phải làm vậy. Chứ tìm đâu được chân ký bây giờ.

Và chàng lại còn thấy người đàn bà đáp:

– Úi chào, thời buổi này, cứ làm gì có tiền thì thôi. Tốt ông, không tiền cũng vứt đi.

Bác sơ-vơ lại nhăn nhó:

– Tôi cũng đã tìm mãi đấy, có được đâu. Ở nhà mãi, ngượng với nhà tôi quá.

Việc, việc, ở đâu cũng việc, xó nào cũng việc. Tiếng bác sơ-vơ nói có đôi cẳng cao của con cò đồng, chạy miết vào vành tai Chuyên. Chàng thấy rợn gáy. Không phải nghĩ đến những dằn vặt của mẹ, nhưng nghĩ đến chỗ nếu một ngày kia, bất đắc dĩ chàng phải làm một việc tương tự như việc bán vé của bác sơ-vơ, chàng sẽ xấu hổ chết mất.

Tầu đỗ ở Bờ Hồ. Một chàng âu-phục, đầu chải bóng, đến trước mặt chàng với một câu tiếng Pháp:

– Tôi là trí-thức thất nghiệp, xin ngài giúp tôi món tiền nhỏ.

Không ngần ngại, Chuyên đưa cả tám xu bác sơ-vơ vừa trả lại. Chàng âu-phục cúi đầu chào rất lịch-sự (!) rồi đi. Nghĩa là đứng lại trước mặt người bên cạnh Chuyên. Và cứ như thế cho đến hết toa tầu.

Khi chàng ta xuống rồi, một ông mặt gân guốc, có tí xanh đỏ ở ve áo, đánh diêm kêu đánh xòe, đưa lên điếu thuốc lá cắm ở cái đót ngà, nhìn theo bình phẩm bô bô:

– Người như thế đi ăn xin, không biết nhục. Tôi không bao giờ cho những hạng ấy. Để cho họ chết đói. Sao có tay, không ốm đau tàn tật, lại phải đi ăn xin.

Một bà, mặt tròn như cái nắp tráp để trên đùi, nói góp ;

– Người ta không có mới phải đi ăn xin. Trông mặt mũi cũng sáng sủa.

Tức thời vấn đề chàng âu-phục lên xin tiền trên tầu được hành khách thi nhau bàn luận. Có phái ủng hộ, nghĩa là dựa vào lòng thương. Và có phái đả đảo, nghĩa là công kích kịch liệt chàng kia, tặng cho những danh từ: đồ ăn bơ làm biếng, đồ đại-lãnl, đồ ăn mày.

Đặc sắc nhất, một ông áo sa, khăn nhiễu, giầy véc-ni, ngồi ở phía giữa, khôi hài một câu thấm thía:

– Chuyện, thời buổi này, nghề gì cũng tiến, sao nghề ăn mày lại không. Công tử ăn mày thế mà “pho” đấy.

Ông ta nói xong, cười một chuỗi cười kêu lột sột.

Phái phản đối, một người rêu rao:

– Nó là thằng nghiện đấy. Cho nó lắm, nó chỉ hút thnốc phiện hết thôi. Cứ bợp tai cho cu cậu dăm chiếc là bận sau cạch. Cho chúng nó thế để chúng nó hư đi. Những quân ấy, phải “sỉ” vào mặt nó mới kiềng

Một bà đàn giải:

– Người ta có khốn lắm mới phải đi xin, ai muốn thế. Chắc lại quan viên thất nghiệp chứ gì. Ai không có công ăn việc làm mà chả thế.

Trời ơi! Cái lưới thất nhiệp nó chăng khiếp quá. Câu “thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”, lúc này chàng muốn đổi ra “thất nghiệp võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” (Lưới thất nghiệp tuy thưa mà không thoát). Ở đâu, xó nào tai cũng phải nghe cái tiếng ác hại ấy.

Rồi không biết tại sao, bỗng chàng thấy ngượng. Tay đang khuỳnh vào hông, bỗng thỏng xuống. Chàng có cảm tưởg như mọi người nhìn vào chàng. Con mắt mọi người đang chu du trên bộ quần áo tàng tàng của chàng. Đến khi cúi xuống nhìn hai miếng vá ở hai bên cạnh sườn mũi giầy nữa thì ôi thôi, cái chứng chỉ thất nghiệp bầy lù lù ra kia rồi. Chàng nghĩ giá lúc ấy có thể ngồi thu chân vào gầm ghế thì đỡ ngượng. Khốn nỗi chàng lại đứng, mà người xuống vơi rồi, thành thử càng lồ lộ. Tiến lên một hai buớc, lại sợ phải cất chân lên, bốn miếng vá sẽ trình chinh với thiên hạ sự tang thương của nó. Mặt chàng đỏ nhừ, chàng thẹn. Thẹn cái thẹn của anh chàng thi trượt phải đến “yết-kiến” bố mẹ vợ.

*

Tầu đỗ ở hàng Đậu, Chuyên xuống. Chàng đi lủi thủi về phìa Bến Nứa, đến nhà bạn ở bãi Phúc Xá. Chàng gặp trên vỉa hè hai, ba người trạc tuổi chàng, trông cũng bơ phờ như chàng, tay cầm tờ giấy trắng cuộn tròn. Rõ ràng họ cầm đờ-măng đi xin việc. Chàng trông bộ diện họ, anh nào đi cũng nhón chân. Thật đúng với câu “chân không đến đất, cật chẳng đến giời”. Và, ma quỷ ơi là ma quỷ, giầy anh nào cũng sứt sẹo như giầy chàng, áo anh nào cũng mất nguyên sắc như áo chàng. Cái mầu tầu tầu, ở đâu chẳng tố cáo sự túng thiếu. Chàng thở dài nhìn họ, rồi nghĩ bụng:

– Việc đâu bây giờ, vác đơn cho nó mỏi.

Quả nhiên, cái anh chàng đi đôi giầy trắng, vì mặc quần ngắn mất một gấu, hở chân cho chàng biết không có bít-tất, rẽ vào một nhà. Chưa bước vào, mới đến cửa, anh chàng đã vội đưa tay lên nhấc mũ, úp vào ngực với bộ mặt kính cẩn. Thôi đích rồi, anh ta đi xin việc chứ gì. Tò mò, đi đến nơi, Chuyên dừng lại ngoài tủ kính, chàng tảng lờ như xem hàng. Chàng khẽ đưa mắt lên nhìn xem anh chàng làm gì. Chàng thấy anh ta khúm núm đưa tờ giấy cầm tay cho môt ông ký già, râu hình cánh chim vỗ sắp bay. Ông ký già liếc qua, rồi đưa trả, lầm bầm nói mấy câu gì chàng không biết. Rồi thấy anh chàng bẽn lẽn đi ra.

Chuyên lắc đầu, chàng thương anh chàng đi xin việc quá. Giá lúc này, chàng có vài đồng bạc trong túi, quyết.. ngay. Không có tiền, chàng cững gọi thiếu niên lại để an ủi một vài câu. Không biết trường hợp này, đưa câu: “Đồng bệnh tương lân” có được không.

Thiếu niên đứng lại:

– Ông hỏi tôi?

– Vâng.

– Ông có việc gì?

– Không, tôi không có việc gì cả. Ông đi tm việc làm phải không?

– Phải, tôi thấy người ta mách nhà vừa rồi muốn mượn thư ký, tôi đến xin không được.

– Người ta bảo ông thế nào?

– Người ta bảo không thiếu người.

Thấy thiếu niên cầm quyển sổ, Chuyên hỏi:

– Trước ông làm ở đâu?

Thiếu niên giở quyển sổ, đưa cho chàng xem một tập giấy nhận thực của các sở thiếu niên làm qua. Tất cả sáu cái. Và cuối cùng, giở nốt quyển sổ:

– Đây là quyển “livret scolaire” của tôi ở trường Bưởi. Tôi học đến năm thứ ba thì thôi.

Ghê chưa, học đến năm thứ ba trường Bưởi, nghĩa là sắp đỗ “đíp-lôm”. Nghĩa là giá học thêm một năm nữa, sẽ đủ tư cách thi vào Toàn-quyền, Thống-sứ, Tòa Sứ. Nghĩa là có hy vọng là ông Phán và nếu có chí ra ông Tham. Nghĩa là hơn Chuyên một trăm từng, một giời một vực. Thế mà cũng thất nghiệp, cũng vác đơn vào cái cửa hàng không lấy gì làm bề thế lắm ở một phố An-nam. À, cuộc đời, biết thế nào mà nói. Chữ nghĩa như thế, cũng phải lêu đêu, làm vẹt hè thành phố. Người thế mà còn thế, mình chắc gì! Mình đã làm gì có những chứng chỉ của sở nọ sở kia, lại chứng chỉ có chân đánh máy, tốc ký, cả công-táp nữa. Tài ba như thế không kiếm nổi cơm, mình rồi đến chết đói. Thật không lúc nào bằng lúc này, Chuyên cảm sâu xa câu: “Thấy người nằm đó, biết sau thế nào!”

Có học, có nghề trong tay còn không kiếm được việc. Mình, cái anh tay trắng, học hành chỉ đáng học trò người ta thì…

– Ông nghỉ việc đã bao lâu nay?

– Tôi nghỉ từ tháng sáu năm ngoái.

– Một năm nay cơ à?

– Vâng, ngày nào tôi cũng đi xin việc, mãi bây giờ cũng chưa được.

Khi thiếu niên từ giã, Chuyên bước đi thấy vương vướng. Hình như có cái gì bằng sắt kết thành những vòng liên tiếp móc ở cổ chân. Chàng nhìn thiếu niên, thở dài. Không chắc đã phải thương người gấp khúc đâu, có lẽ Chuyên thương mình thì đúng hơn. Thương cái thân hèn mọn của mình, rồi tìm đâu được việc.

Những tiếng riếc móc của bà Ký từ đâu đến đập vào tai. Chàng nghe rõ mồn một:“- Không chịu cạy cục, rồi đến chết đói” “- Cứ sườn sượt nằm dài ở nhà, rồi khối việc ra đấy”.

Đầu chàng bị những ý tưởng đen tối đè sập. Chàng muốn ngẩng lên quá, mà không thể. Nó làm sao ấy, hình như bàn tay bí mật nào dìm đầu chàng xuống.

*

Tần thấy bạn, reo to:

– À anh Chuyên! Sao độ này lâu đến thế? Bận à?

Chuyên giơ tay bắt:

– Bận quái gì đâu, lười đi thì có.

Tần gọi vợ tíu tít:

– Đun nước anh xơi, mình!

Vợ Tần trong nhà bước ra, cầm chai chè đặt trên bàn

– Kìa anh Chuyên, sao lâu anh không lại chơi?

– Có đi được đến đâu.

Vợ Tần nhăn nhó:

– Đã đành anh đi làm thì bận, nhưng chủ nhật nghỉ cũng đi được chứ?

Chuyên không muốn nói dối, thú ngay:

– Tôi nghỉ đã lâu rồi, chị ạ. Có đi làm nữa đâu.

– Ồ, thế sao anh không lại chơi?

Tần vỗ vào vai bạn đánh sầm:

– Rõ thật con mèo, nghỉ sao không bảo cho người ta biết. Tháng trước vừa khuyết một chân, người ta mách con bác Thảo bên cạnh, nó xin được ngay. Ký kho, “son” hai mươi mốt đồng.

Chuyên ngẩn mặt, tiếc:

– Khổ quá, thế có chết không! Nào ai biết đâu.

Vợ Tần cười, bảo chồng:

– Cậu rõ thật.. Chắc anh Chuyên không không muốn đi làm, ở nhà buôn bán chứ gì.

Chuyên nhăn nhó:

– Khốn nạn, thế đã nên chuyện. Chạy sứt trán không tìm được việc đấy, chị a.

– Thật không anh?

– Tôi lại dám dối chị nữa hay sao?

Vợ Tần nhìn chồng để chia sự tiếc rẻ với bạn:

– Hoài của, biết thế mách anh ấy, có phải anh em cùng làm một sở, đi về có nhau không.

– Nào ông ấy có nói đâu mà biết.

– Thôi thế từ nay, anh để ý giúp tôi xem nhé. Nghỉ nhà mãi, chán lắm rồi. Lại túng chết người nữa chứ.

Vợ Tần cười:

– Gớm, anh lại sợ chúng tôi vay mượn hay sao, đã phải kêu trước.

– Thật đấy, chị ạ.

Vẫn không tin, vợ Tân tiếp:

– Có điều anh ở nhà buồn, muốn đi làm thì có. Chứ làm thì được bao nhiêu. Chắc đã đủ cho anh tiêu vặt chưa.

– Chị cử tưởng thế. Tôi không đi làm, mợ tôi nói lôi thôi khiếp lắm.

– À, các cụ muốn anh đi làm đi lụng cho nó ra vẻ chứ các cụ cần gì.

Câu ấy càng làm cho Chuyên nghĩ đến những sự mẹ riếc móc. Chàng thẫn thờ:

– Có đi làm cũng có hơn chứ.

*

MỘT tuần lễ sau, bà Hảo hấp tấp trở lại. Gặp bà Ký, bà vui mừng nắm tay bạn:

– May rồi, may rồi, tôi đến báo tin mừng cho bà chị đây.

– Gì thế à?

– Cậu “xếp” nhà tôi bảo tôi đến ngay tìm cậu Cả. Có việc rồi.

Nói xong, bà lau mồ hôi, kể công:

– Gớm giời nắng chang chang, mặc cả một hào xe, nó lại bắt bí, nó không đi. Tức mình, cuốc bộ cho cu cậu trơ mắt.

Bà Rý vội vàng lấy quạt, quạt phành phach cho bạn:

– Đấy, tôi đã bảo cậu cháu nhà tôi, thế nào rồi bà cũng tìm việc cho cháu mà. Tôi bảo ngay cậu cháu, bè bạn của tôi là thương tôi lắm, không như người ta.

Bà Thảo được nịnh, ghé vào tai bạn thì thào:

– Ấy, khe khẽ chớ, không thiên hạ họ xôn xao. Chán vạn người cầu cạnh cháu mà cháu nhất định không nghe.

Thật ra, bà Ký không thể tin được cái lý gần như vô lý của bạn, cũng đáp xuôi:

– Vâng, tôi đã hiểu ạ.

Lại kéo tay bạn, bà Hảo nhìn trước nhìn sau như xem không có ai mới nói, bà hếch mắt:

– Mấy tháng trước, đã có đứa nó ghen ghét, nó bỏ giấy. Cháu về nói chuyện thế.

Bà Ký tuy vẫn biết tính bạn hay làm ra to chuyện, nhưng cũng làm ra bộ lo lắng:

– Ấy chết, để tôi phải dặn cháu, đừng nói với ai rằng cậu “xếp” cất nhắc cho, kẻo tiếng tăm vỡ lỡ, người ta đồn đại.

Như được tưới vào ruột gan một bồn nước, bà Hảo nở một nụ cười kiêu hãnh, bà lại níu tay bà Ký:

– Không giúp đuợc cháu là tôi đứng ngồi không yên. Hàng xứ kia cũng còn đùm bọc được nữa là con cháu trong nhà.

Cái thói kênh kiệu của những kẻ đắc thế là một thứ gì chẳng thể không có ở trần gian, bà Hảo dùng những danh từ không đúng chỗ. Bà đã tự cho mình cái quyền đùm bọc gia đình bạn. Bà lại cũng tự cho quyền gọi phăng con bạn là con cháu trong nhà.

Bao giờ chẳng thế, loài ngtrời là giống hay vu-khoát, khi được việc cho ai. Công lệ này đã cai trị cả những hạng “tai to mặt lớn”, chứ đừng thèm nói đến bà Hảo. Bà Hảo dẫu sao cũng chỉ là đàn bà. Mà đàn bà, nghĩa là khi lòng tự ái được nịnh, nói vung tứ linh, coi giời cũng không bằng vung.

Giá như những khi mua họ, hay họp nhau ở cửa đền cửa phủ, bị ai trịch thượng, bà Ký đã bắt bẻ ngay. Nhưng bây giờ, bà yên lặng. Chẳng những đã không mếch lòng, bà lại còn sung sướng đuợc bạn khi thị mình. Bà làm ra bộ vồn vã hơn nữa bợ đợ:

– Giá bà không giúp cho cháu thì chưa biết đến bao giờ, cháu mới có việc làm.

Rồi kéo tay, nói nhỏ vào tai:

– Ấy thế rồi mà thiên hạ cũng biết cả đấy. Rồi lại chả chán vạn người ….. cầu cạnh mình ấy à.

Như cái bánh cao su đã căng lại được bơm thêm, bà Hảo sướng rơn, nhưng còn làm bộ xoa tay:

– Chết, chết, đừng có cho ai biết. Ghen vợ ghen chồng, không lồng bằng ghen ăn. Nhỡ lúc họ ghen ghét, lại rầy rà.

Không còn gì để trưng nữa, bà Hảo bèn tiếp:

– Thế cháu đâu? Gọi nó về đây chứ.

Bà Ký nhìn trước nhìn sau, rồi gọi vọng vào trong nhà:

– Mỹ đâu! Ra mợ nhờ một tí, con.

Mỹ đang mạng sơ-mi cho ông Ký, vội chạy ra. Nàng lễ phép chào bà Hảo:

– Lạy bà ạ.

Bà Ký hỏi ngay con:

– Thế nào, Chuyên nó đâu?

– Anh con vừa đi đâu ấy ạ,

– Cô chạy đi tìm nó về cho tôi.

Rồi nhìn bạn, bà chép miệng:

– Ấy, khổ thế đấy, bà ạ. Công việc chả có, cứ đi lang thang cả ngày. Tôi lắm lúc cứ não cả ruột về nó. Không đi làm thì túng đã đành, lại còn xấu hổ với ông cả bà nhớn nữa chứ.

Một lát sau, Mỹ chạy về. Nàng thở hồng hộc:

– Con sang nhà anh Bích, anh ấy bảo đi đánh cờ ở đâu ấy.

Thế là tự nhiên cái mặt tròn xoe của bà Hảo rúm lại:

– Lại cờ với quạt nữa cơ à!

Bà Ký thở dài, ỉu mặt như để cho bạn thương mình:

– Tôi thật cũng là cái thân tội, được ông con chẳng chịu làm ăn gì, chỉ rông rài quanh năm. Có nói thì bố lại bênh chầm chập.

Bà Hảo nói đỡ:

-Thôi, từ mai trở đi thì chả lo nữa. Giăng đến rằm giăng tròn. Cứ đi làm là mất rong chơi.

Rồi bà cười hềnh hệch:

– Tôi phải mua cho cháu cân lạp-sường. Chốc cháu có về, bà bảo cháu lại đằng tôi, để cậu “xếp” nó dặn cách thức.

Bà Ký cho cái sự con đi vắng như thế có lỗi với “ân nhân”, bà liền nịnh thêm một câu. Bà trỏ con gái, cười bảo:

– Còn cháu bà nữa đây, bà xem có đám nào nên ông nên bà thì đánh tiếng cho cháu.

Câu nói ấy làm cho bà Hảo được dịp lên câu:

– Được rồi, lo gì! Cậu “xếp” nó khối bạn, rặt những người danh giá cả, để rồi tôi gióng giả cho.

Quay lại nói với Mỹ:

– Cứ là cháu bác thì khối đám dòm dỏ.

Rồi oang oang:

– Nào, thế cô muốn kén Ký, Phán hay Tham nào? Cháu bác muốn gì nào.

Mỹ thẹn đỏ mặt, lủi mất.

*

Chuyên thất thểu đi về. Chàng cỏ vẻ mệt nhọc, ngồi phịch xuống ghế. Bà Ký ở trong bếp chạy ra. Giá mọi khi thì bà đã hỏi mấy câu:

– Nào, cậu đi đâu về nào? Có được cái tích sự gì không?

Nhưng lần này, thường lệ ấy bị tước hẳn, chỉ vì Chuyên bây giờ không thất nghiệp nữa. Chỉ qua đêm nay, sáng mai con bà đã “hiển vinh” rồi.

Bà ngọt ngào hỏi chuyện:

– Con đi đâu về? Đi những đâu mà cỏ may bám đầy quần thế kia?

Chuyên ngạc nhiên về chỗ mẹ để ý đến mình; về chỗ mẹ không hạch sách mình; về chỗ mẹ dịu dàng, không lôi đình như mọi khi ; và về chỗ mẹ gọi mình bằng con.

Hỡi ơi! Sự ngạc nhiên của Chuyên mới não lòng làm sao! Người con lấy làm lạ khi được mẹ gọi bằng con! Thật là trên sự quái gở, thật là trên sự mỉa mai. Một là trên sức tuởng tượng của loài người. Tình mẫu tử, cổ nhân vẫn ca tụng, trong trường hợp nầy đã mất cái nghĩa đáng ca tụng của nó.

Chuyên vừa nhặt cỏ may, vừa đáp:

– Con xuống bãi Thuốc Lá tìm người bạn cũ để nhờ xin việc. Anh ấy làm ở sở nước đá, anh ấy hứa chỉ nửa tháng sẽ kiếm được việc cho con.

Câu trả lời của chàng có cả cái nghĩa của sự biện hộ. Chàng sợ nếu không nói rõ cái cớ “xuất-hành” của mình, mẹ chàng sẽ mắng cho một trận nên thân như mọi ngày.

Nhưng không, cái áo giáp chàng tưởng cần để hứng những tiếng chì tiếng bấc, vô dụng cho chàng. Bà ký Hảo đã thay đổi số phận cho chàng rồi.

Bá Ký làm bộ thương hại con:

– Giời nắng nôi thế nầy, đi làm gì cho khổ thân, nhỡ ốm một cái thì làm thế nào?

Không biết anh chàng đi săn bị hổ vồ không ăn thịt, cảm giác thế nào, chứ Chuyên thì chàng không thể không giật mình về sự không bị mẹ mắng. Lá bùa chấn-trạch bà Hảo yểm cho chàng, chàng dã biết đâu.

– Con phải đi tìm việc, chứ không ngồi nhà thì việc ở đâu mà làm.

Bà Ký không muốn “bắt tội” con mãi, bảo ngay:

– Có việc rồi, không phải tìm nữa. Tôi đã chạy cho cậu rồi. Mai cứ việc đi làm thôi.

Chuyên há hốc miệng, chàng nhìn mẹ một cái nhìn bái phục:

– Mai đi làm, phải không mợ?

Bà Ký chĩa vào tận mặt con:

– Phải ạ, cậu sửa soạn quần áo cho tôi. Cậu lại ngay đằng bà Hảo cho tôi.

– Lại bà Hảo làm gì, bả mợ?

-Lại đi làm, chứ lại làm gì!

–???

– Cậu “xếp” xin việc cho con mà lại. Con lại ngay xem cậu “xếp” bảo gì. Có giấy má gì thì đem theo, không lại phải về lấy, mất công.

Nói xong, bà Ký bảo Mỹ:

– Con dọn cơm cho anh con ăn ngay đi, anh con còn phải đi nhận việc cơ mà.

Bữa cơm hôm ấy thiếu hẳn một món: riếc móc. Suốt bữa, bà Ký vui vẻ hỏi con gái một câu, lại hỏi con giai một câu. Nụ cười luôn luôn đậu trên môi bà Ký.

Bỗng bà dừng đũa, chỉ vào quần Chuyên, bảo Mỹ:

– Dọn dẹp xong, con giặt ngay cái quần cho anh con đi, lấm be lấm bét thế này. Từ mai giở đi, cô phải trông nom quần áo anh cô cho cẩn thận. Ở nhà thế nào xong thôi, đi làm phải cho nó tươm tất, không người ta cười cô đấy.

*

KHI Chuyên đi khỏi, bà Ký gọi Mỹ lên. Bà ngồi tì tay vào cái tráp, Nhai trầu bỏm bẻm. Cái dáng ngồi của bà khác hẳn ngày thường, trông rõ ra phết mẹ ông Ký tương-lai. Bà chỉ ghế, bảo con:

– Cô ngồi đây, tôi hỏi cô vài việc xem nào.

Mỹ vừa ngồi xuống, bà đã lại chỉ cái ống nhổ, lúng búng. Mỹ đưa ống nhổ cho mẹ, hỏi ngay:

– Mợ hỏi gì con?

Bà Kỹ nhón miếng trầu ở lưỡi, đưa ngang mắt xem có đỏ hay không, rồi mới đáp:

– Có phải hôm nọ, cô hàng gạo cô ấy rủ chơi họ không?

– Vâng ạ.

– Họ bao nhiêu?

– Họ bốn trăm ạ. Mỗi tháng đóng hai mươi đồng.

– Bà Phán, bà Xếp, bà Thuận-Thái, có ai chơi không?

– Bà Phán, bà Xếp không chơi ạ, nhưng bà Thuận-Thái lại chơi những hai bát. Bà ấy giầu nhỉ, mợ nhỉ?

– Chuyện, phi thương bất phú, buôn bán lại chả giàu nữa thì vừa.

– Sao bà Phán, bà Xếp không chơi, mợ nhỉ?

– Không có tiền thì không chơi chứ sao. Cô tưởng mỗi tháng đóng hai chục ít à? Lương Tham-biện cũng chưa chắc đã ngồi được một bát.

– Thế mợ định chơi à?

– Cũng định chơi một bát, nhưng không biết có được đứng đắn không. Hay lại lươn khươn như vợ Ký Nền thì chết.

– Gớm, mợ nói, ai cũng như nhà cô Ký Nền ấy thì vừa. Cầm cái họ lại chỉ định ăn không của người ta thì người ta kiện cho.

Bà Ký chặc lưỡi:

– Chơi họ thì phải chọn mặt mà chơi chứ, mỗi lúc thưa kiện thì còn gì là tiền.

Nghĩ một lát, bà tiếp:

– Để mợ hỏi bà Thuận-Thái xem, nếu còn thì mợ chơi một bát. Thằng Chuyên nó đi làm rồi, phải chơi bát họ, chứ không, cần đến tiền thì vay ai?

Mỹ ngây thơ hỏi:

– Nhà ta thì bao giờ cần đến bốn trăm mà phải chơi họ?

Bà Ký lườm yêu con một cái, rồi cười:

– Cô rõ thật có lớn chẳng có khôn. Chỉ sợ không có tiền. Chứ lại lo không có việc tiêu.

Rồi bà lộ trên khuôn mặt một nét ưu tư:

– Rồi còn phải xem đám nào con nhà tử tế, hỏi cho anh cô chứ. Lông bông mãi thế nào được.

Mỹ cười, thẹn:

– Anh ấy mới có hai mươi lấy vợ làm gì sớm, hả mợ?

Bà Ký mắng yêu con:

– Không lấy vợ cho nó thì ai rước cô đi.

Mỹ ngẩn mặt, không hiểu mẹ nói thế nào, nhưng cũng không dám hỏi. Nàng nói sang chuyện chơi họ:

– Mợ biết lương anh ấy bao nhiêu mà mợ định đóng tháng hai chục?

– Cậu “xếp” lương những sáu chục một tháng, nó lại không được một nửa lương của người ta à.

– Nhưng biết anh ấy có làm được lâu không?

Đang vui vẻ, bà Ký sầm mặt, mắng ngay:

– Ăn với nói, chẳng nghĩ trước nghĩ sau gì cả, chỉ được cái bạ miệng.

Mỹ tiu nghỉu, cúi gầm mặt.

Bà Ký bồi luôn cho nàng một câu:

– Thôi, xuống giặt quần cho nó đi, chẳng được tích sự gì cả.

*

Bà Ký giận con gái đã làm gở bà. Rõ thật có nhớn không có khôn. Ai lại đi quở quang công việc làm của anh bao giờ không. Nếu là đi buôn đi bán, có lẽ đã gặp sự không hay.

Bà Ký bực mình một lát, chỉ thoáng thế thôi, bà lại phục hồi ngay. Bà sang bên bà Thuận-Thái, hỏi thăm về bát họ.

Ngõ Tân-Quỳnh có tất cả mười bốn mái nhà. Bà dọn đến sau người ở trước trên hai năm. Nghĩa là bà là tay kỳ cựu của ngõ này. Mười bốn gian nhà cùng một kiểu, cửa sổ giống nhau, màu sơn giống nhau, cửa chính giống nhau, sân sứa giống nhau, nghĩa là một cái là cả mười bốn cái. Lượng-phẩm hòa-đồng. Có khác chăng là cái “lòng” của những gian nhà ấy.

Vài gian của những gia đình phong lưu một chút có sập, tủ khảm, quạt máy. Và một gian, của cậu “Phán kèn nói”. Danh từ này, ngõ Tân-Quỳnh đặt riêng cho cậu ta. Vì cứ chập tối, dân “ngõ” cơm nước xong, cậu Phán vặn kèn nói cho dân “ngõ” nghe nhờ. Cái đĩa cười của cậu đã làm cả những ông cả bà nhớn cười như nắc nẻ, cười đến mất hình thù nguyên thủy của con người.

Cậu “Phán kèn nói” sở dĩ chiếm được cái danh này, không phải hoàn toàn trông cậy ở cái máy thu-thanh, ở cái vật vô-tri-giác này. Cậu còn do tài năng mà chiếm được mỹ tự ấy. Tài nói nhanh, nhanh gần bằng kèn nói. Dân ngõ Tân-Quỳnh đã phải bảo nhau:

– Giá ngõ ta cãi nhau với ngõ Lý-Hòa, có cậu “Phán kèn nói”, chắc không thua.

Tay cựu trào nhất là cụ xếp Bích. Cụ đến ở đây từ lúc chưa ai thuê lấy một gian. Năm ấy, ông Phán Xuân hãy còn học ở “ke”, cô “thông nó” mới mười mấy. Chính tảng đá ở cổng ngõ đi vào là cụ chôn ở đấy. Vì chẳng biết xem sách nào, cụ nẩy ra ý kiến yểm tảng đá cổng ngõ cho dân ngõ làm ăn được yên ắng. Thâm ý của cụ, đáng nhẽ không ai biết, nếu không có một hôm, bà chủ 14 gian nhà, gọi là bà “Sà-Sê” (gọi theo tên chồng) hỏi cụ xếp, để cụ cười rung râu mà đáp:

– Tôi chôn tảng đá ở đấy, bao nhiêu tà ma không dám bén mảng đã đành. Lại còn có nghĩa ai đã dọn đến đây, không bao giờ đi nữa. Cứ ở cho đến khi chết. Vàng đá mà lị, hiểu chưa?

Thế là cụ chủ với cụ thuê cùng cười tít, sau một cái nhìn đằm thắm.

Ngõ Tân-Quỳnh kém ngõ Lý-Hòa bên trước cửa ở chỗ ngựa xe rộn rịp, vì cả ngõ chẳng ai có cái xe nhà nào. Nhưng hơn ở chỗ không hay có người dọn đi. Chẳng biết có phải kết quả của tảng đá hay không?

Ngõ Tân-Quỳnh lại hơn ngõ Lý-Hòa ở chỗ hoạn-nạn đồng tương-cứu, nghĩa là nếu nửa đêm một người trúng phong, có thể đập cửa hàng xóm xin tí dầu Đại-Quang hay Nhị-Thiên-Đường; và quan, hôn, tang, tế, được dân xóm thành thực chia buồn hay chia vui. Chứng cớ: mấy đám xác các con ông Phán, con bà Thuận-Thái, con ông Đội Nghi, đám cưới cô Thành và đám khao Hàn Lâm ông Phán Bửu gian cuối. Tang ư, dân ngõ cũng đối trướng, vòng hoa. Hôn ư, dân ngõ cũng nước hoa, chìa vôi. Dân ngõ quý nhau đến bực ông Phán Bửu được Hàn Lâm trước khi về làng khao, khao ngay “ngõ”.

Nhưng không phải vì những lẽ trên, dân ngõ được tiếng hoạn-nạn đồng tương-cứu. Những vụ bà nọ thiếu tiền giật lửa bà kia, những vụ cho nhau vay gạo, những vu cứu sống nhau ở chỗ đưa một vài đồng bạc. Đấy, những vụ ấy đã làm cho dân ngõ kết thân với nhau hơn tất cả.

Sở dĩ dân ngõ có cảm tình với nhau như thế, là vì ở với nhau lâu. Người mới đến là ông Đội Nghi cũng được nữa cơ mà.

Bà Ký ở nhà bà Thuận-Thái ra là cái tin “cậu Chuyên mai đi làm” bung ngay. Bà Đội, bà Phán, bá Thông, nhao nhao mỗi người đến hỏi một câu, mừng một câu. Bà Ký chọn câu ưng ý nhất của bà Đội:

– Xóm ta thế là không còn ai thất nghiệp.

Bà Ký hài lòng về câu ấy, bởi lẽ nó không còn tính cách bêu riếu gia đình nhà bà có con “ma-cà-bông”.

Cái tin “mai cậu Chuyên cậu ấy đi làm” nổi dậy xóm Tân-Quỳnh như men rượu. Bà Ký hớn hở sung sướng lắm.

Sung sướng ở chỗ từ nay bà không phải nghe những câu hỏi thăm, dù thế nào cũng không được dễ nghe lắm.

*

Chuyên đi về. Trông bộ không được nhanh nhẹn của con, bà Ký hỏi ngay:

– Hôm nay, chắc cậu nhọc lắm. Vừa về đã phải đi ngay.

Rồi niềm nở:

– Thế nào, cậu “xếp” bảo mai đi làm chứ?

Lạ chưa, Chuyên không đáp ngay. Mặt chàng lại thất sắc đi thế kia. Hay con bà đi đường ngộ gió! Hay…hay làm sao thế này?

– Kia, tôi hỏi cậu mai cậu đi làm hử? Cậu “xếp” đã bảo lương cậu bao nhiêu chưa?

– Vâng ạ.

Chuyên trả lời bất trúng bất viễn. Bà Ký hất hàm, bảo ngay con gái:

– Vặn cái đồng hồ đánh thức lên cho nó, không mai lại nhỡ giờ đấy.

Rồi bảo Chuyên:

– Ấy, tôi đã chơi cho cậu bát họ bốn trăm rồi đấy. Mỗi tháng đóng có hai chuc thôi. Chịu khó đóng một vài năm là có dăm ba trăm ngay đấy mà. Từng tuổi đầu rồi, lông bông mải được à. Chừng lấy vợ lấy con nữa. Cậu “xếp” có hỏi giấy má không? Mai cứ lại sở, hay cùng đi với cậu “xếp”?

Chuyên thần mặt. Chàng thắt ruột. Khổ sở đến thế này thì thôi! Loong-toong thì làm thế nào được, hở giời? Tưởng cậu“xếp” xếp cho chân gì. Ai ngờ chân chạy giấy, tháng vẻn vẹn có mười hai đồng. Chạy giấy, nghĩa là loong-toong, nghĩa là không thể kham được. Nhưng làm thế nào bây giờ? Im đi thì cũng chẳng được, nói ra biết mẹ có hiểu nỗi khổ tâm cho không?

Nghĩ không còn đường nào khác, Chuyên đành phải thú thật:

– Con không đi làm đâu, mợ a

Bà Ký nhìn vào tận mặt con. Mắt bà bình nhật bé thế mà bây giờ to bằng hai mắt Chuyên. Bà gặng:

– Thế nào, anh bảo thế nào?

– Con không đi làm.

– Anh không đi làm?

– Vâng.

Bà Ký đập tay xuống bàn đánh sầm:

– Anh muốn vô phúc đốn đời, có phải không? Anh muốn ăn báo cô mãi, có phải không?

Những danh từ tế-nhị, nể-nang, không được đắc dụng ở đây. Bà Ký đã vô hồi kỳ trận vào mặt con:

– À, ra cơm không muốn ăn. À, ra quân ăn bơ làm biếng!

– Nhưng mợ bảo làm loong-toong, con làm thế nào được??

Bà Ký cười nhạt:

– Sao không làm được? Sao không làm được? Làm gì có tiền thì thôi chứ. Rõ thật “kiếm củi ba năm thiêu một giờ” (?). Mẹ lậy sứt trán, người ta mới xin việc cho: con lại ông Hạng, không làm.

Rồi bà gõ xuống bàn, hỏi riết róng:

– Nào, thế anh định làm ông gì nào, anh bảo tôi.

Chuyên sợ hãi, nhăn nhó:

– Con cũng định đi làm, chứ ở nhà làm gì. Nhưng loong-toong, con chịu.

Bà Ký hất luôn cho chàng một cái vào mặt:

– Cái thứ anh, không làm loong-toong anh làm gì? Anh định làm vương, làm tướng gì? Ở nhà báo hại à?

– Mợ cứ cho con một tháng nữa, thế nào con cũng có việc làm. Mợ bắt con làm loong-toong, con chịu thôi. Mợ giết chết con, con cũng chịu.

Bà Ký nghiến răng kèn kẹt ;

– Anh nói cho ch.. nó nghe. Có việc, lười, trốn không làm, lại còn khất một tháng nữa. Thôi, anh có đường có nẻo, anh cút đi. Tôi không chứa anh nữa đâu. Anh đi đâu, ăn được thì đi. Anh đừng bêu xấu bêu hổ tôi.

Thấy Chuyên yên lặng, yên lặng cái thứ chịu chết một bề của con giun, bà Ký tưởng con chuyển lòng, bèn phủ dụ. Bà nghĩ làm quá cũng thế, thà dỗ dành xem sao:

– Anh phải thương bố mẹ chứ. Nhà một đống miệng ăn. Anh không thương tôi nợ khắp mặt các ông, các bà ấy trong ngõ này à? Anh phải nghĩ mới được chứ. Anh phải thương cha, thương mẹ mới được chứ.

– Làm loong-toong, con không làm.

Đáng nhẽ bà Ký gầm lên vỡ nhà, nhưng bà cố nén, nén để dụ con:

– Làm gì thì làm, quý hồ kiếm được tiền. Nhà bây giờ túng lắm. Con không thương mợ à.

Rồi xòe bàn tay:

– Anh xem, cậu anh đưa về mỗi tháng được bao nhiêu? Mấy chục đồng bạc, ăn hồ không đủ.

Cái tài của các bà vợ những công chức,“ tư chức”, là không kiếm ra tiền, lại cứ đi kêu ầm: chồng đưa không đủ tiền.

Mỗi khi cần đốc thúc con, bà Ký vẫn đem sự túng thiếu gia đình ra làm cớ.

– Trước nhỏ sau to, chịu khó làm đi con ạ, rồi dần dà, cậu “xếp” cất nhắc cho chứ. Thời buổi này, ai cười ai. Với lại, đi làm, chứ đi xin đâu mà cười.

Chuyên vẫn khăng khăng:

– Con xin mợ để con tìm việc khác.

Đã gần muốn bật lên lắm rồi, bà Ký còn cố nhịn:

– Cứ làm đi, con ạ. Lúc nào tìm được việc tốt hơn lại bỏ, cần gì.

– Con chịu thôi.

– Anh không đi làm, nhà túng đấy…

– Tháng sau, con đi làm.

– Con phải nghe mợ.

– Nhưng ê lắm, con không...

– Ai người ta biết mình làm…

– Nhưng trong sở họ sai, bực lắm!

– Cố đi con ạ.

– Con chịu.

Một tiếng hét làm rung tất cả bàn ghế. Mặt kính, tủ chè đập đập kêu leng keng. Đôi câu đối sơn then cơ hồ như lệch lạc cả. Bà Ký nhẩy chồm lên, bà xỉa xói vào mặt con:

– Đồ khốn nạn! Đồ ăn bơ làm biếng! Đồ vô nhân bạc nghĩa (!)… Đồ cu-ly! Mầy chỉ quý cái thân mày thôi, ai chết mặc ai. Tao cho suốt đời, mày không thể mọc mũi nẩy tăm được.

Lần đầu tiên, Chuyên bị mẹ mắng gắt như thế, thậm tệ như thế. Chàng không thể ngờ đã là mẹ con, lại nói nhau đến cạn tầu ráo máng. Chàng không ngờ bà Ký đang ngọt nhạt là thế mà giở…mặt ngay đấy. Chàng gần muốn oà khóc cho mộng đời của chàng tan tác.Tan tác giữa những tiếng chửi rủa của mẹ.

Mặt chàng tím bầm. Giá lúc ấy không có ai, chàng có can đảm dập đầu vào cái đỉnh con trên tủ. Uất quá, không thể nào chịu được nữa rồi.

– Con không làm được, mợ chửi rủa con mãi cũng đến thế thôi. Mợ không nuôi con nữa thì thôi, con đi tìm việc vậy… Chứ ở nhà với mợ, khổ lắm!

Có lẽ sự khổ sở bốc ngùn ngụt trong lời Chuyên, bà Ký nhận thấy, bà trợn. Xưa nay bà xem báo, bà thấy bao nhiêu vụ tự sát, bao nhiêu vụ bỏ nhà đi. Hừ, nếu bà làm quá, rất có thể… Rất có thể, nếu Chuyên quá chí, Chuyên liều.

Bà Ký hạ hỏa:

– Ngurời ta ở đời cũng nên tùy nghi chứ. Gập lúc gập khúc, ta hãy chịu vậy. Rồi sau vùng vẫy cũng vừa cơ mà. Bảo không nghe, cứ khái, khái được mãi à? Nhà thì nghèo, ta phải phiên phiến thế nào xong thì thôi chứ.

Thấy Chuyên hơi dịu, bà lại dỗ:

– Chịu khó, con ạ. Chịu khó đi làm cho có tiền. Bao giờ chạy được việc khác thì thôi. Ở đời, ai giầu ba họ, ai khó ba đời (?), làm loong-toong mãi đâu mà sợ. Thế nào, chịu khó làm vậy, con nhé? Làm lấy dăm ba tháng đỡ mợ.

Chuyên bị dồn vào tình thế không thể từ chối được nữa rồi. Nếu chối nữa, mẹ chàng sẽ thốc cho vô hồi kỳ trận. Thôi thì ngộ biến tòng quyền, Chuyên hãy nhận liều cái đã, rồi muốn ra sao thì ra. Chứ không, ầm cửa ầm nhà, cùng quá tội.

– Vâng, thưa mợ, mai con đi làm.

Bà Ký đang dữ dội như hùm tinh, thu nanh vuốt ngay. Bà nhìn tận mặt Chuyên, xem có phải chính con bà nói câu ấy. Khi biết không thể nhầm, bà mới nói:

– Phải thương mợ mới được chứ, cứ làm tạm đi. Rồi sau, mợ xem có việc gì khá hơn, mợ tìm cho.

Danh sách chương


Sách tương tự