← Quay lại trang sách

PHẦN IV

HÔM nay là ngày hệ trọng nhất của Chuyên, hệ-trọng ở chỗ lìa bỏ quê cha đất tổ tìm vào Nam-kỳ sinh sống.

Bà Ký làm một bữa cơm thịnh soạn, có những mâm cơm bầy cái cảnh túng thiếu của chủ nhân trong những món ăn «gọi là có». Trứng ư, một đĩa trứng lo lắm, nhưng mỏng tang, mỏng hơn cái bánh đa khoai. Bát canh thịt nạc rau cải, vài miếng thịt lèo tèo chìm xuống dưới làn «nước biếc». Đĩa thịt bò xào đậu đũa, kích thước đậu đũa với diện tích miếng thịt không làm nổi cái tính trừ. À, những miếng thịt bò ấy phải thưa thớt sống cái đời thưa thớt của chúng trong cái «rừng» đậu đũa đã hẳn rỗi.

Đã lâu lắm, bà Ký không làm những món kể trên. Nhà bao nhiêu miệng ăn, giữ vững được hai bữa cho no bụng cũng đã bở hơi tai. Nói gì đến no, lại no một cách «xa xỉ».

Đã lâu lắm, từ ngày danh-từ «cậu Xếp» biến, thịt bò băm nhét vào cà-chua, canh giò sống nấu chua, cái và nước bằng nhau biến theo. Đã lâu lắm, trứng mới lại có dịp trở lại nhà bà.

Một người trong gia đình ra đi có phải chơi! Cho rằng ra đi vì nghèo, vì không có việc làm thì cũng là ra đi chứ gì. Lòng bịn rịn nhớ nhung, hẳn cũng không kém.

Bà Ký mắt đỏ hoe:

– Có công việc, đánh ngay thư về cho cậu mợ con nhé!

– Vâng.

– Con vào trong ấy đừng có đua đòi ăn chơi. Đánh đu với tinh thế nào được. Họ tiền rừng bạc bể.

– Vâng.

Người cha có lẽ bình nhật thương con nhiều quá, nên lúc chia ly chỉ lặng thinh. Ông Ký nhắp hết ly rượu cuối cùng, mím môi, nhăn mặt. Rượu cay hay lòng cay?

– Anh cứ vào trước đi, chưa biết chừng tôi cũng vào sau, xem có việc gì tôi còn làm được.

Con mắt ông nặng một u hoài. Ý chừng ông nghĩ đến từ nay ông sẽ tiêu thụ thay con những nhời «xa xôi» của vợ. Bao giờ chả thể, vài ba người chịu một câu nói nó vẫn dễ chịu hơn. Vì ai cũng có cảm tưởng không phải mình. Chứ lại trần trần ra, còn «đổ vấy» cho ai được mà chả ngượng. Có phải ông Ký nói câu ấy vì ông cảm thấy rồi đây ở cái nhà này, chỉ mình ông, mình ông đối đầu với những câu bóng gió:

– Miệng ăn núi lở. Người ăn thì có, người làm thì không…

Bà Ký tỏ ý không bằng lòng, ném cho ông một cái nhìn trách móc:

– Bố con ông đi cả, để mình mẹ con tôi ở nhà à? Nữ nhân nan hóa (?), tôi chịu thôi.

Đôi môi ông Ký vẫn mím chặt. Ông thở dài:

– Không đi, ở đây rồi cũng phải tính cách làm ăn buôn bán chứ. Ngồi ăn mà được à?

Thì đã bảo bà Ký là người không biết thớ lợ mà. Bà nói ngay:

– Phải đấy, cậu không lo liệu thế nào, rồi đến nhăn răng cả ra với nhau.

Có những người thích mặc những màu rất gắt: đỏ lòm, xanh lơ, vàng ối, thì cũng có những cái miệng bất chấp ngôn từ. Nói được đúng ý là nói. Còn chữ nặng nhẹ, ồ, những cái ấy nghĩa gì nào! Cứ chém to, bung nhừ là được. Đã có lần Mỹ can mẹ:

– Gớm, mợ cứ nói thế, con thấy thế nào ấy. Việc gì mợ phải nói quá.

Bà Ký, những lần ấy chỉ cười nhạt và lý luận một cách rất đanh thép:

– Cô không phải chạy gạo, cô cần gì!

Mỹ định đưa anh ra ga. Chuyên nhất định không nghe:

– Em ở nhà xem mợ có sai bảo gì không. Đi làm gì mất thì giờ. Đi cũng đến thế thôi.

Phút chia tay sở dĩ có ở trần gian là vì giời đã sinh ra đàn bà. Phút ấy, đàn bà sống nhiều hơn chúng ta, phát biểu nhiều hơn chúng ta. Mỹ bỏ thêm cái khăn tay của nàng vào làn mây cho anh, sụt sùi.

Bà Ký «sống» ngay ý tưởng của bà, và «phát biểu» liền bằng một cái lườm:

– Rõ khéo cô, đi làm đi ăn chứ đi đâu mà khóc! Không đi mà kiếm ăn, ở nhà chịu chết đói à? Rõ thật, chỉ được cái hão!

Nguồn nước mắt tắt ngay, Mỹ cụt hứng, tiu nghỉu. Bà Ký giọng khô, đập vào tay Chuyên:

– À này cậu, đi làm có tiền nhớ tìm mua cho tôi một cây lĩnh nhé. Lĩnh Saigon bền mặt lắm, không hay vỡ.

*

Chuyên cân nhắc mãi, không biết có nên đánh dây-thép không? Mấy hào chỉ lúc nầy đâu có phải thường. Có lẽ chẳng nên tự nhiên lù lù đến. Đành, lúc tiêu vẫn phải tiêu. Báo trước bằng dây-thép cho anh chị ấy ra ga đón, cho con cháu Nga nó sướng.

Thế là chàng bỏ ra năm hào chỉ chi phí vào việc báo tin chàng đến cho ông Phán Mai. Ở nơi xa xôi, gặp người của người nhà, vui thật, sướng thật! Rồi lại líu tíu, mất cả làm ăn. Con Nga thấy chú nó, phải biết, lại cười khanh khách ngay. Chị Mai lại gỡ không hết chuyện. Anh Mai lại chiều nào cũng «xi-nê», hết rạp nọ đến rạp kia. Gớm, dạo nghỉ phép về, năm kia thì phải, hồi ấy Chuyên đang «hái» ra tiền, vợ chồng anh chị ấy đi đâu một bước cũng bắt chú đi. Hơi con Nga khóc là ra chú bế. Ngờ ngợ một thứ hàng là «chú Chuyên đoán hộ anh xem có đắt không nào?». Người chị dâu ấy thế mà tử tế với họ nhà chồng quá. Hễ ra ngoài về là mua bánh đậu, mua cốm để ông bà và chú xơi. Và âu yếm Mỹ một cách lạ. Dạy cả uốn tóc, dạy cả đánh phấn hồng, dạy cả tô sáp môi. Và lúc hết phép, cả hai vợ chồng đều ân cần, gớm, ân cần lạ lùng:

– Hồi nào chú xin nghỉ được một tháng, vào chơi với tôi nhé! Saigon, hòn ngọc Viễn-Đông đấy. Vào, rồi tôi đưa đi xem Sở Thú, đưa đi xem Đại-Thế-giới. Ồ, đẹp thì phải biết. Rồi tôi làm mối con gái Saigon cho. Liệu chú xin nghỉ một tháng được không?

*

CHUYÊN đặt va-li, làn mây xong, giải tờ nhật trình xuống ghế, ngồi xuống. Thọ ở đâu đi đến, tay xách cái bồ con:

– Tôi đây, anh!

– Kìa anh, anh đi hôm nay à?

– Phải, anh lại đằng tôi phải không? Chắc mợ tôi bảo chứ gì?

– Không, tôi không lại.

– Sao anh biết tôi đi hôm nay?

– Tôi biết đâu.

– Sao anh lại ra đây?

Thọ nhìn lên phía trên, ngoái xuống phía dưới:

– Tôi xếp hàng cho mấy người anh em họ bán chuyến tầu này.

– Hàng gì?

– Các thứ kẹo Tây và lơ của tôi.

–???

– Thôi, anh đi cho được may mắn, tôi phải tìm họ.

Sau cái bắt tay, Thọ phăng phăng rẽ người đi thẳng.

Tầu chạy đến Thường-Tín thì đỗ lại, đợi tầu tránh. Một thanh niên Âu-phục, mặt mũi sáng sủa, lanh lẹn đến đặt va-li, rồi rao rất tự nhiên:

– Đây là thứ lơ mới chế của sở Vạn-Thọ…

Chuyên vội quay mặt đi, chàng ngượng thay cho thanh niên. Đến khi thanh niên rao xong, đưa lơ cho từng hành khách xong, đưa đến chàng. Chàng xua tay:

– Tôi không mua!

– Ngài cứ xem cho biết.

– Tôi không xem.

Thanh niên thản nhiên đưa cho bà bên cạnh.

Khi thanh niên đi rồi, Chuyên thở phào. Chàng thấy đỡ bứt rứt. Bà bên cạnh đưa cho chàng xem gói lơ vừa mua:

– Rẽ lắm ông ạ, lại tốt nữa. Tôi đã mua mấy lần, tôi biết. Cái nhà ông này bán hàng giỏi đáo để!

Chuyên xem xong đưa giả, lẳng lặng. Bà ta hỏi:

– Sao ông không mua một gói, có hào chỉ chứ bao nhiêu? Lơ này tiện hơn lơ bột nhiều.

– Tôi không dùng đến.

Bà ta lại hỏi luôn:

– Ông đi đến đâu?

– Tôi vào Saigon,

– Ông vào chơi?

Chuyên lấy làm lạ sao bà ta lại hỏi liên miên, bèn đáp xuôi:

– Vâng.

Bỗng bà ta chép miệng:

– Tôi có thằng cháu vào trong ấy từ năm ngoái đến bây giờ vẫn chưa tìm được việc. Giá không có người làng tôi họ buôn bán trong ấy, dễ thường cháu đã chết đói.

Lại một cây cong nữa cho con chim đã bị thương nhiều lần, chứ không phải một. Đói, chết đói, tiền, nhăn răng, ôi! Sao ở đâu người ta cũng nói đến những tiếng ấy thế?. Phiền quá, hay ho gì mà bất cứ chỗ nào cũng kêu ca? Đứng về phương diện lịch sự, bà ta hẳn đã chẳng ý tứ chút nào. Nhưng hỡi ơi! Cái đói, cái rét, há chẳng phải là những đe dọa kinh khiếp treo trên mạng chúng ta là gì? Một điều trọng đại như thế, người ta không nhắc đến sao được. Từ lúc mặt giời mọc đến khi mặt giời lặn, nghĩa là từ bình minh đến hoàng hôn, loài người chẳng thể bỏ qua hai bữa. Thế thì sao loài người lại chẳng sợ nó, chẳng kinh hãi nó, chẳng nhắc nhở nó luôn? Miếng ăn chả đã cai trị loài người cay nghiệt hơn những chế độ hà khắc sao? Khi nao moi dạ dày ném đi, con người vẫn cười nói được, à, lúc ấy có bắt kêu đói rét cũng chẳng ai kêu. Câu «hữu thân hữu khổ» ở chỗ này có lẽ đúng lắm. Người ta vẫn bảo cái khổ tinh thần cắn rứt bằng trăm cái khổ vật chất. Với những linh hồn thượng đẳng, đành rồi. Những quần chúng lúc nhúc này cảm xúc đời theo mực của đấu gạo, chiều dài tấm vải. Gạo cho no, vải cho ấm, đấy lẽ sống của quần chúng đấy. Nhà hành đạo Jésus đã thâm hiểu quần chúng. Ngài hóa ngay ra bao nhiêu bánh và cá để yên lòng họ. À, ngài phải là duy tâm chứ! Nhưng ngài vẫn không chối luật định của dạ dày. Dạ dày có là những lo âu, than vãn đều có cả. Cất nó đi, câu thiên đường hạ giới không có nữa. Vì là thiên đường thiên đường rồi.

Bà bên cạnh không thấy chàng bắt chuyện, cười bảo:

– Ông chắc vào Nam tìm việc?

Đã toan không nói, nhưng không nói, bà ta sẽ hỏi mãi, Chuyên đành đáp để cắt liên lạc:

– Không, tôi vào làm trong ấy.

Nói thế, Chuyên cốt ý làm cho bà ta hiểu chàng vào làm chứ không phải vào tìm việc như con bà mà sợ chết đói.

*

Bao nhiêu tiếng đồng hồ ngồi trên tầu, Chuyên chỉ thấy độc có một thứ: hàng quà. Và chỉ thấy hành khách trong toa, lúc nào cũng ăn. Ăn sáng, ăn trưa, ăn tối. Và tên bồi búp-phê bưng món ăn qua lại trước mắt bao nhiêu lần. Ăn, ăn, ăn, ỏ đâu cũng ăn, lúc nào cũng ăn. Chàng tự nhủ: Ra người ta sống chỉ để ăn, chỉ lúc ăn mới sống thật, chỉ lúc ăn thì bao nhiêu giác quan mới bừng mở. Miếng ăn ơi! Xiềng xích của mày có lẽ to hơn dây lỉn giữ tầu ở bến. Chẳng thế, sao loài người chỉ vướng víu vì mày, nhục nhã vì mày, trôi nổi vì mày. Và một ngày kia, tội lỗi cũng vì mày. Mày hủy được cả tình cốt nhục, hủy cả đến sự âu yếm của mẫu tử, cắt đứt bao nhiêu thơ mộng của đời.

Đôi vợ chồng đang yêu nhau đằm thắm đấy, chỉ một tháng lương hụt, nghĩa là kém miếng ăn chứ gì, hừ, va chạm ngay, xích mích ngay. Lại cả đến những cái hôn cháy da, những cái nhìn lọt thỏm vào hồn, những thứ thiêng liêng ấy rụng ngay khi giờ phút của miếng ăn thúc bách.

Ăn, ăn, ăn, ở đâu cũng ăn, ai ai cũng ăn. Thì hẳn ở đâu cũng nhắc, và ai ai cũng nhắc. Miếng ăn là trời đấy, cổ nhân chẳng đã bảo coi miếng ăn như trời là gì. Nhưng trời ở cái nghĩa này: Mày chạy đi đâu, trốn đi đâu, mày ngửng lên chẳng thấy giời, giời chụp đầu mày. Cái lẽ hóa sinh của muôn loài dễ cũng ở miếng ăn mà ra. Muôn loài có thay đổi gì, thay hình đổi lốt gì, nếu không có sức tiếp dẫn của chất khác, sự pha trộn của chất khác? Một chất đến với một chất để hủy phá nguyên hình, đấy cũng là miếng ăn chứ?

Miếng ăn, nguồn sống trần gian. Miếng ăn tắt là nguồn sống tắt. Bầu thủy tinh không có một phao dầu, phao dầu không có ống muống, ống muống không có bấc, bấc không có lửa. Ồ, cái nọ không ăn cái kia, thì này tắt, tắt, tắt! Trần hoàn là cả một con số không!

*

CHUYÊN đặt va-li xuống sân ga, nhìn ngược nhìn xuôi. Chàng kiễng chân, ngó bên này, ngó bên kia. Quái, anh chị Mai của chàng không thấy ra ga đón. Hay dây-thép không đến? Hay không còn ở Amiral Courbet? Hay chưa ra kịp? Hay đứng đón ngoài cửa ga? Hay con Nga nó làm sao, không ai đi được vì phải túc trực? Hay, hay, hay…. bao nhiêu là hay… để rồi chàng phải đành vác va-li, ra vậy. Đợi đến hết người là cùng chứ còn đợi đến bao giờ? Có nhà dây-thép ngay ở sân ga đâu bảo đánh cái nữa, rồi đứng đợi.

Ra khỏi cửa ga, chàng níu một người hỏi thăm phố. Người ấy chỉ về phía xa:

– Thầy goa kia, ghoẹo đây, đó, nơi có xe hơi… (Thầy đi qua phía kia, rẽ đấy, chỗ xe hơi đỗ là con đường thầy hỏi đấy)

Tiếng nói líu díu làm cho chàng chẳng hiểu gì cả. Chàng đành gọi một cái xe. Kể ra thì chàng tiếc lắm và đã hơi hối hận về sự hoang phí của mình. Nhất là hoang phí trong lúc treo neo. Song chàng nghĩ ngay:

– À, đi cái xe cái pháo cho nó sang, bệu rệch đến không tiện, thế nào anh chị Mai, cháu Nga chẳng đợi mình ở cửa. Con Nga nó trông thấy chú, nó lại nhẩy cỡn lên. Anh Mai lại xách va-li vào nhà. Chị Mai lại cầm hộ cái làn mây. Bao nhiêu bộ mặt hớn hở, bao nhiêu bàn tay sắp sửa giơ ra với mình bây giờ…

Xe đỗ, chàng ngẩng nhìn số nhà, rồi mạnh bạo bước vào gõ cửa. Con sen chạy ra:

– Ông ở Bắc vào phải không?

– Phải.

– Ông là ông Chuyên?

– Phải.

Lúc bấy giờ nó mới mở to cửa, mời chàng vào.

– Ông bà và chị Nga đâu?

– Ông bà tôi ra phố mua giầy cho cô Nga. Ông bà tôi dặn ông cứ ở nhà, rồi ông bà tôi về.

Ồ, thảm nào, rõ anh chị phiền phức thật! Có thằng em vào chơi mà cũng phải sắm sửa giầy dép cho con để lúc cùng đi xem «Sở Thú» Nga diện cho đẹp chăng? Rõ thật vẽ, giá chàng không vào, có lẽ Nga không có giầy đi? Anh chị ấy cứ kiểu cách thế nó mất thân đi.

Đến lúc con sen múc nước cho chàng rửa mặt thì thôi, chàng sướng tuyệt rồi! Anh chị chàng quả đã quý chàng quá! Ai đâu lại mua sẵn bánh Cadum thế này để nhà cho mình rửa. Con sen vừa bóc hẳn hoi. Ừ, mà quý chàng cũng phải. Hồi anh chị Phán ra Bắc,chàng chả đã khoản đãi cực kỳ trọng hậu là gì. Hơn ba trăm bạc bổng để dành, tiêu hết nhẵn. Tối nào chẳng Cải-lương đồng-ấu, trưa nào chẳng tỉm-xắm, bánh bao.

Rõ thật phiền, rồi anh chị ấy lại thù tạc rầy rà quá! Nhưng thôi, cũng ăn chơi đất Sài-goòng một cái cho biết mùi, đã làm sao!

Mỗi lúc chạy vào đây được hẳn. Mỗi lúc được gặp anh chị ấy hẳn.

*

Chuyên ngồi vắt vẻo ở «sa-lông», đợi vợ chồng Mai về. Thuốc lá ở hộp, chàng tự tiện lấy hút, thở khói phì phèo rất đắc chí. Anh chị Mai tử tế này. Anh chị Mai vui tính này. Anh chị Mai lại giầu này, lại sang này. Nhà cửa lịch sự thế này nào. Ồ, cái tranh Tầu cổ nàng Chiêu-quân kia mới dài làm sao! Cái tủ chứa ăn vào cái sập, bộ «sa-lông» Tầu, mới ra dáng nhà quan làm sao. Lại kèn nói nữa kìa. Phải biết, chiều đến cơm nước xong, bế cháu Nga lên lòng để nghe những bài Vọng-cổ tuyệt trần của cô Năm Sadec thì sướng đến tiêu hồn.

Chàng nghĩ đến đấy, bỗng tiếc sao ngày năm ngoái chàng không vào ở đây với anh chị Phán mà hưởng cuộc đời có được không. Nhất là khi trông thấy cái tủ áo, chàng nhẹ hẳn đoạn trường. Trong cải tủ áo kia, ít ra cũng phải có dăm bộ quần áo thừa mà điều này mới hả hê chứ: anh Mai khổ người thì cũng na-ná chàng, chàng mặc chắc là vừa lắm. Đến khi trông thấy sáu đôi giầy bày thành hàng trên cái bục gỗ nữa thì thôi hết, khoái cảm lên đến tận-độ! Những sáu đôi giầy đi gì hết. Trong số những sáu đôi ấy, thế nào anh Mai chẳng bảo chàng vứt đôi giầy tã của chàng đi, lấy một đôi nào ưng ý nhất mà diện có được không?

Chả thiếu gì cả, anh em giầu có cũng có điều sướng thật! Giầu có mà lại dễ tính, lại quý người nữa thì thôi, tha hồ cấy «sâm canh», tha hồ vọc tay vào két.

Điều làm chàng mừng nhất là chân Mai cùng số chân chàng. Ba mươi tám cả đây mà.

Nhà cửa Mai sang thế này, thiếu gì bè bạn! Chỉ ở đây dăm tháng là Mai giới thiệu quen khối ngay. Việc tìm dễ như bỡn.

Chàng lại giận mình một lần nữa, sao có anh em giầu có tử tế thế, trong lúc ba đào lại chẳng mò vào. Ở Hanoi cho mẹ dày vò, cho bạn bè khinh bỉ, cho thằng thợ giặt nó sai con nó sang sỉ vả đòi tiền, cho gây thành chuyện để phải nằm bóp mấy ngày đêm. Rõ thật đúng như các cụ vẫn bảo u mê ám chướng là thế. Giá ngay từ độ ấy vào béng đây có phải tránh được bao nhiêu cảnh não lòng?

Bỗng chàng vỗ đùi đen đét, chặc lưỡi hàng thôi dài. Ngu, ngu quá, ngu ơi là ngu! Lại còn vấn đề mấy chục bạc vào đây nữa. Sao không viết ngay thư cho anh chị Mai, có phải anh chị Mai gửi tắp ra, có phải đã vào từ bao giờ rồi không? Việc gì phải lại Cai Tiến, việc gì phải hòng phất xóc đĩa, việc gì phải đến nhà Thọ để nó nói như ông trạng ấy?

Rõ thật quẩn, rõ thật lú lấp, mỏ vàng đấy, anh em ruột thịt đấy, chẳng nhờ lại nhờ người dưng nước lã. Giọt máu đào hơn ao nước lã, à ra cổ nhân nói đúng thật, cổ nhân dạy chẳng câu nào thừa. Chỉ có mình nhân bần khí đoản (!) lúc «bô» công việc bị mẹ mắng lấp mất cả trí đi cho nên đường quang không đi đâm quàng vào bụi rậm. À, ra lúc vận chưa đạt thì không còn biết chỗ nào nên đến, chỗ nào nên xin.

Thôi, từ nay giở đi rồng gặp mây, cả gặp nước, cái áo sơ-mi đang mặc đây chỉ chốc nữa thì ném cho thằng bếp. Anh Mai thiếu gì những cái đẹp bằng trăm, mới tinh hảo bắt mình mặc. Anh Mai nào lại để cho mình đeo mãi cái thứ áo sờn cổ, sờn tay này.

Giời đất ơi là giời đất! Sao các ngài không khai tâm mở trí cho từ năm ngoái có được không, để cứ lêu bêu ở cái đất Hanoi cho thiên hạ họ nói bóng nói gió, họ dè bỉu.

Phen này anh Mai cậy cục xin việc cho, nhờ anh Mai mua cho cái xe đạp trả dần, may mặc thật sang, Tết về Bắc chơi cho thiên hạ biết thằng Chuyên này chẳng phải đụt đâu. Chẳng qua lúc thời vận chưa đến thì chịu đấy thôi.

Dăm ba năm nữa biết đâu lại chẳng có cửa nhà lịch sự, sang trọng như anh Mai. Và chắc chắn thế nào chị Mai chẳng «mồi chài» cho một cô con gái ông hội đồng, hội điếc nào. Lúc bấy giờ phải biết, rể ông hội đồng hàng trăm mẫu ruộng, về đất Bắc «vinh quy bái tổ», ân oán giả hết, giả hết, giả không sót người nào cho mà xem. Và mời một bữa tiệc ở Phong-Lưu đại-tửu-lâu, đãi tất cả các anh em cũ ở sở cho họ biết thằng này ra ngoài không chết đâu. Còn làm nên muôn tứ đỉnh chung là khác.

Và cô vợ Saigon nhỏ nhẻ, búi tóc, đeo kiềng vàng, xinh bằng trăm các cô ngoài Bắc, chiều chiều ở «ô-ten» Tây, khoác tay với chàng về chơi ông bà Ký.

Trời ơi là trời! Người ta sông có khúc, người có lúc mà cái «lúc» của chàng thì chàng thấy nó đến tận gáy rồi. Chỉ việc đưa tay về đằng sau khèo lấy nó thôi.

Rồi phen này thiên hạ hãy mở to mắt ra xem «me-xừ Chuyên, tế-tử ông Hội-đồng X… » quy cố hương.

Rồi phen này thiên hạ hãy để dành lấy một hào chỉ mua lấy tờ báo xem mục Hỉ-Tín:

Ông Nguyễn-văn-Chuyên kết duyên cùng ái-nữ ông Hội-đồng Phạm-Phú Quý «đại» điền chủ, Rạch-giá.

Rồi phen này, thiên hạ đợi xem ông Nguyễn-văn-Chuyên làm phép cưới ở tòa «đốc-lý». Có đủ mặt thân hào hàng tỉnh đến dự, các báo chụp ảnh đăng tên.

Vợ đẹp, con khôn, nhà cao, cửa rộng, «bít-tất Tầu, ô Tầu, giầy cườm», phải biết, phải biết, những ai xưa kia đã đầy đọa Tô-Tần đừng có cúi đầu, chắp tay, hãy ngẩng lên xem cho biết mặt nầy là ai?

*

Một giờ sau, vợ chồng Mai về. Có lẽ người ta mừng quá nên lúc gặp không ôm chầm ngay lấy nhau, quay tít mấy vòng như lúc tưởng tượng trước khi thấy mặt.

Mai đưa tay bắt, thản nhiên:

– Chú vừa vào chuyến tàu ban nãy?

– Vâng, em vừa mới đến đây. Gớm tìm nhà khó khăn quá. Hỏi ai cũng lắc đầu.

Sự thực không như Chuyên nói.

Chàng đã tố lên để cho có chuyện.

Vợ Mai cầm cái va-li của chàng ở trên bàn «sa-lông» đặt ra cạnh cái tủ:

– Chú đi tầu chắc mệt lắm nhỉ?

– Vâng, tầu đông lắm chị ạ.

– Ấy, hôm qua nhận được dây-thép, mừng quá. Giá không phải đi ăn khách chiều nay, cũng ra đón chú đấy.

– Anh đi mua giầy tho cháu Nga?

– Không, ai bảo chú?

– Con sen.

– Không, mua cho nhà tôi đấy chứ.

– À!

– Đi tầu mấy ngày, chắc ngứa ngáy lắm đấy nhỉ, tắm nhé?

Đấy, biết ngay mà! Anh Mai săn sóc chàng từng li từng tí mà,, tất nhiên phải thay quần áo, chắc anh Mai lại đưa bộ pyjama.

Rồi Mai gọi thằng bếp:

– Lấy nước chú tắm mày!

Đã mát lòng hả dạ chưa! Thật bõ với những ngày «gian-truân» ở Hanoi.

Chuyên làm bộ mệt, vỗ trán:

– Anh để tí nữa em tắm, nghỉ cho đỡ mệt đã.

– Chú uống tí đá lạnh cho đỡ mệt.

Vợ Mai mở «te-mốt» lấy cục đá bỏ vào cốc, rót vào đầy một chút nước lã đưa cho Chuyên.

– Chú uống đi.

Chuyên chưa uống vội, chàng đặt cốc xuống bàn. Hai chữ «đá lạnh» chị Mai mời chàng lạ tai quá. Dễ thường một thứ nước khoa-học thượng-hạng của ngoại quốc có tính cách bổ phổi giết vi trùng lao chắc? Sao cách pha lại giản dị thế này? Gớm những nhà sang họ dùng những thứ nước giải khát lạ thật.

– Kìa, anh không xơi à?

– Tôi vừa uống ngoài chợ.

Chuyên ngạc nhiên, sao anh Mai của chàng lại uống ở chợ. Đầu đường xó chợ, phương ngôn đã nói. Anh Mai của chàng đeo cái đồng hồ tay bóng nhoáng, tròn xoe thế kia lại ra chợ uống nước là cái gì?

Chàng bèn hỏi lại:

– Anh vừa uống à?

– Tôi uống ngoài chợ.

Ý chừng thấy câu hỏi lộ trong con mắt Chuyên, Mai cắt nghĩa:

– Trong này người ta hay uống nước ở chợ Bến-thành chớ không như ngoài ta.

Chuyên gật gù:

– Hừ, lạ nhỉ!

Rồi cầm cốc đánh một hơi. Lạ chưa, chẳng «mùi mẽ» gì cả. Y như nước lã. Lạ chưa, hay là nước lã?.

Vợ Mai đưa bộ pyjama cho chồng, Mai cầm, đưa cho Chuyên. Chàng giơ tay kính cẩn đỡ. Nhưng không thấy Mai buông tay. Mai vẫn giữ, Mai chỉ những «ray-uya»:

– Đố chú biết hàng này bao nhiêu một bộ nào?

– Mười lăm đồng.

Mai cười:

– Không, ba mươi hai đồng. Nếu là hạng xoàng đã chả đưa cho chú …

Chuyên cười sung sướng.

Mai tiếp luôn:

– Để xem chú có rành không, chú đoán có đúng không.

Nói xong, Mai cười hì hì, đi về phía giường thay.

Chuyên tưng hửng. Chàng tưởng Mai đưa cho chàng. Thực ra, khi người ta bị «tẽn», người ta cũng bẽ thật đấy, nhưng Chuyên không giống người ta. Chàng sáng lắm. Chàng tìm ngay thấy cái lý Mai không đưa cho chàng. Phải rồi, vì cái va-li của chàng đấy mà. Chắc Mai tưởng chàng đem theo vài bộ quần áo ngủ chứ gì. Vì thế Mai không đưa chứ gì. Chàng với Mai thì đến hàng trăm cũng chẳng tiếc, nữa là bộ pyjama.

*

Bữa cơm trưa hôm sau cũng không có gì tỏ ra có khách quý đến nhà. Cái này mới lạ chứ, đành rằng không nhiều thức ăn lên, không thêm dăm ba món hầm rán, đến vẻ mặt của anh chị Mai cũng chẳng có vẻ gì là đãi khách cả. Ô hay! sao bữa cơm lại đượm một vẻ «chết chóc» thế này? Ai nấy cứ gắp, ai nấy cứ và, ai nấy cứ húp. Chẳng ai nói với ai câu nào. Nhất là chị Mai, trông uể oải lắm.

À, thôi lại phải rồi. Có thế mà cũng phải nghĩ. Rõ thật lôi thôi. Hôm qua anh chị ấy đi dự tiệc, uống rượu «sâm-banh» nhiều, hút xì-gà nhiều, nói chuyện với các quan khách nhiều thì hôm nay phải mệt chứ, không mệt có là đá, có là sắt.

Chuyên muốn hỏi xem hôm qua anh chị dự tiệc ở nhà bạn hay ở «ô-ten», các quan khách có những vị nào. Nhưng thấy anh chị Mai mệt, hình như nhức đầu hay sao nên mặt mũi cau có, lại thôi không dám hỏi.

Ăn cơm xong, có đĩa lê táo để ở «búp phê» cũng chẳng thấy chị Mai bỏ ra để tráng miệng. Quái, hay là chưa chín? …..

Một hôm, hai hôm, ba hôm. Không biết ngày thường anh chị Mai có vui vẻ không, chứ ba hôm nay anh chị ấy mệt mệt thế nào ấy, chẳng nói chuyện, chẳng cười đùa như khi ra Hanoi với mình.

Lại phải rồi, tiệc tùng to thế, sơn hào hải vị thiếu gì, ăn một hôm thì anh-ách đến ba bốn hôm chứ.

Một tuần lễ qua, qua trong không-khí lãnh đạm. Sở Thú, anh chị Mai cũng chẳng đưa đi xem. Đại-Thế-giới cũng chẳng thấy anh chị Mai đả-động đến. Dĩ chí cái khoản «xi-nê», «cải-lương» cũng không thấy anh chị Mai đưa đi xem. Ngày hai bữa, anh chị Mai chỉ bảo vẻn vẹn được có một câu thụt lủn:

– Lại ăn cơm, chú.

Và một hôm, chàng ra phố mải xem chợ, về chậm có mấy phút, anh chị Mai đã ăn trước mất rồi. Đến lúc về, chị Mai hỏi:

– Chú ăn cơm chưa?

Tất nhiên chàng phải đáp chưa ăn. Chị Mai nhăn mặt:

– Lần sau, chú ăn cơm rồi đi đâu hãy đi, không nhỡ bữa.

Chuyên choáng hồn. Kìa, sao chị Mai yêu quý của chàng lại có thể bảo chàng thế? Chàng đến vỡ đầu mất. Lại có thể thế được à?

À, không phải, tí nữa nghi oan cho chị. Các bạn chàng trước chẳng đã bảo người miền Nam ngay thẳng, ăn nói không thớ lợ như ngoài ta, không có những sự lấy lòng lấy bề vô ích là gì.

Phải, đúng rồi, thằng xe hôm nọ chàng đi, lúc giả lại tiền chẳng đã «sửng cồ» với chàng là gì. Xứ nóng, người thật thà, không có những thưa gửi lôi thôi, không như ai «bề ngoài thơn thớt nói cười, bề trong nham hiểm giết người không gươm».

Chàng tự nhủ:

– Ấy thế mà lại dễ ăn ở, không phải giữ ý giữ tứ lôi thôi.

*

Chuyên tắm xong, vô ý để bánh xà-phòng thơm trong đĩa sũng nước. Vợ Mai gọi con sen, tát nó đôm đốp:

– Mày mù à, mày định hại tao có phải không? Bánh xà-phòng mấy hào chỉ của người ta, ngâm thế còn gì!

Chuyên tưởng chị Mai chàng không biết chàng vừa tắm, bèn lên tiếng::

– Em tắm, em để quên đấy mà.

Ma quỷ ơi là ma quỷ, khốn nạn ơi là khốn nạn! Mai nghe chàng nói, chẳng nể nang, đốp ngay:

– Từ giờ chú có tắm xong thì đem xà-phòng vào cho tôi, để thế bở hết. Chú không đem được thì sai chúng nó đem. Mỗi thứ một tốn...

Nhà đã phát hỏa rồi, cháy rồi, chuột nhớn chuột con ra mặt cả rồi. Hừ, thế này còn giời đất nào nữa, có bánh xà-phòng thơm mà chị Mai nỡ nói chàng thế. Thế này ra họ khinh mình thật.

Chuyên đã «thực-thà» cho đến lúc không thể «thực-thà» được nữa. Chẳng những chị Mai khinh chàng, chị Mai còn đuổi khéo chàng nữa. Luôn luôn chị Mai hỏi:

– Thế nào, chú đã tìm được việc chưa?

Rồi lại chép miệng:

– Trong này công việc không dễ như ngoài ấy đâu. Cử-nhân, Tú-tài cũng nằm nhà đấy chú ạ. Chú có ở chơi vài hôm nữa rồi ra thì ra chứ. Ở đây cơm đợi canh chờ đến bao giờ.

Nuốt nước mắt, Chuyên nghẹn ngào:

– Em muốn nhờ anh xem có quen biết ai, xin hộ em một việc.

Chị Mai cười khẩy:

– Anh thì quen ai, đi làm việc nhà nước chỉ quen những các ông ấy trong sở. Chả nhẽ lại xin cho chú vào Dây-Thép à? Thà bảo chú đổ đạt, hèn ra cũng có cái bằng Thành-chung thì mới nói chuyện chứ.

Rồi cũng chẳng cần giữ kẽ, chị Mai bảo thẳng ngay:

– Đừng đợi anh xin việc cho, vô ích. Tôi bảo thật đấy. Chòng vòng mất thì giờ.

Điêu đứng chưa, tưởng vào đây nhờ ông anh đùm bọc tìm công kiếm việc cho, ai ngờ bà chị xua như xua tà thế này. Hừ, đời đen bạc thật!

Buổi chiều, chàng đến tận sở đón anh Mai. Chàng nghĩ bụng đàn bà ai chả thế, thấy ăn nhờ ở đậu sợ tốn kém vội rũ ra. Thôi chả trách, dù sao chị Mai cũng chỉ là đàn bà. Đi đón anh Mai, giục anh xin việc hộ còn hơn. Anh Mai hẳn còn «hiểu» chàng hơn.

Mai ở sở ra, đang đi với mấy người bạn.

Chàng tiến đến. Mai vẫn cứ nói chuyện như thường, chẳng giới thiệu chàng với các bạn. Đến chỗ các bạn Mai rẽ mỗi người một nơi, Mai mới quay hỏi chàng:

– Chú đi đâu?

Chuyên, mặt rầu rầu:

– Em đi đón anh, nhờ anh…

Mai lắc đầu:

– Tôi đã hỏi một vài nơi, nhưng họ bảo phải có bằng đánh máy tốc-ký, hay ít ra cũng phải có diplôme. Chú thì làm gì ra những thứ ấy.

– Anh giúp nơi khác cho em.

Mai nhíu lông mày, cau có:

– Chẳng nhẽ tôi lại xin cho chú chân bán hàng, hay loong-toong. Nó không tiện cho tôi. Bạn bè họ dị-nghị.

Trái đất còn đợi đến bao giờ mới sụp? Các định-tinh, hành-tinh, đến bao giá mới choảng xuống đầu chàng?

Chuyên run bắn, chàng chết lặng, đành nín không dám nói gì nữa.

Đi được một quãng, Mai gọi xe trèo lên rồi mới bảo:

– Tôi nhức đầu lắm phải về trước, chú về sau vậy.

Ba bánh xe «si-lô» chạy, Chuyên tưởng chừng nó cuốn theo ruột chàng. Chàng nhìn hút, thở dài não nuột, như ngày nào bị bắt bỏ bóp.

Đã hết cho đâu, khi Chuyên về đến nhà, chị Mai bảo chàng:

– Chú có đi ăn cơm thì ăn, anh nhức đầu uống sữa, tôi tẩy kiêng cơm hôm nay.

Người ta đã làm đủ thử để đuổi chàng ra khỏi nhà. Anh Mai, chị Mai của chàng đã đặt vào tay chàng một tầu lá chuối. Nhà chỉ có con Nga là không thay đổi gì cả. Hồi nó ra Bắc, nó bi-bô «chú chú» «cháu cháu » với chàng thế nào thì bây giờ nó vẫn thích chơi với chàng như trước. Nhưng nó là trẻ con, nghĩa là nó phải theo ý muốn của cậu mợ nó. Mà cậu mợ nó muốn gì? Cậu mợ nó muốn rằng nó không được bắt chú Chuyên bế, không được vòi chú Chuyên. Nghĩa là cậu mợ nó bắt nó «tẩy chay» chú Chuyên.

Nhà này, nếu có một người thương chàng thường chuyện trò với chàng là thằng nhỏ. Vì nó cũng cùng số phận với chàng. Từ ngày con sen ở Bắc vào thế chân, nó bị cho «ra rìa» và hết tháng này cút.

Chị Mai hôm nọ chả đã bảo:

– Con sen này, bà bạn tôi đem nó vào ở cho tô. Mỗi năm có mười tám đồng. Nó làm ăn sạch sẽ đáo để. Cái thằng ôn con kia, làm ăn đã bẩn thỉu lại đòi những bốn đồng rưỡi một tháng.

Những lúc anh Mai đi làm, chị Mai ra chợ, Chuyên thường than thở với nó nỗi «ấm lạnh» của «người đời». Người đời đây, chàng muốn ám chỉ vợ chàng Mai.

– Cậu không biết, hôm nọ mợ ấy còn bảo con trông nom nhà cửa, không có nhỡ cậu «thó» mất cái gì thì con tù. Và một lần nải chuối trong trạn chuột gậm mất một quả, con bẻ vứt đi. Mợ ấy chưa hỏi con, mợ ấy đã nghi cho cậu ăn vụng, con bảo chả có nhẽ cậu lại thế. Mợ ấy bỉu môi bảo con «Mày biết đâu, hôm nọ tao bắt gặp cậu ấy ăn hai miếng đường đấy».Thế cậu có có ăn vụng không?

Chuyên tức đổ ruột, chàng không ngờ họ lại đểu giả đến thế. Họ lại nghi cho chàng những điều khốn nạn thế. Chàng phải cắt nghĩa cho thằng nhỏ, không nó khinh chàng đi:

– Không, ai lại ăn mày thế. Hôm nọ anh đi mua hủ-tiếu về cho tôi. Nhiều ớt quả, tôi bị cay bỏng lưỡi. Ăn xong bèn mở «búp-phê» lấy miếng đường, có một miếng thôi, ngậm cho đỡ cay.

– Ồ, thế mà mợ ấy lại bảo những hai miếng. Cậu về Bắc đi, ở làm gì, mợ ấy không tốt đâu. Hôm nọ tôi giặt cái sơ-mi cho cậu, mợ ấy bảo cứ dúng nước, không phải xát xà-phòng.

Chuyên như bị át-xít dội cháy thịt.

– Mợ ấy còn lè lưỡi bảo bẩn, từ giờ có giặt thì giặt riêng ra.

*

VÚT! vút! vút!

Roi đời quật vào mặt, vào lưng, vào khắp mình mẩy, nậy từng miếng thịt. Chuyên vụt tỉnh.

À, ra bây giờ «thịt nát máu rơi» rồi, chàng mới nhận ra câu danh ngôn đanh thép của một danh nhân:

«Sống phải theo luật định. Mày không tự buộc mày vào luật định thì đời sề quật vào mặt mày, bắt mày phải theo»

Hỡi ơi! Thành kiến cá nhân, thành kiến xã hội là những dây xích phải chặt nó vung ra. Không chặt xích, đời sẽ bị chôn chết trong nhục nhã, trong oan trái.

Lúc này, Chuyên mới thấy thấm thía những lời Thọ nói với chàng: «Phải dò đúng cái lẽ cần của cuộc sống hiện tại mới tránh được đau thương, vật chất cũng như tinh thần».

Thôi, không còn do dự nữa, chuyến này về Bắc, chàng sẽ đi bán hàng với Thọ, chàng sẽ xoay hướng cuộc đời.

Chàng tìm ra cái cớ nó khiến chàng trải bao tủi nhục: Tiền! Thì sao chàng lại không như Thọ, làm cho ra tiền có được không?

Lúc này hơn lúc nào hết, câu «Không có nghề hạ tiện, chỉ có người hạ tiện» thâm nhập não-tủy chàng. Chàng mở bừng đôi mắt quầng đen vì bẽ bàng, nhục nhã, nhìn như cắn đồng tử vào các người qua đường:Tất cả mọi người làm việc.

Tất cả mọi người làm việc. Những bàn chân đạp trên xe, những bàn tay mang xách, nhũng cái vai gánh. Đàn ông, đàn bà, ông già, trẻ con, tất cả nỗ lực làm việc. Chàng nhìn họ bằng tất cả thèm muốn. Chàng muốn chạy ra níu họ lại, hét ầm lên:

– Các người đã tránh được ô-nhục. Các người xứng đáng là người. Các người hất được những bàn tay sần sùi của đói rét trên đầu các người. Các người đạp được ngạo-nghễ của số-phận, rủi-ro của định-mệnh. Các người không có xích thành kiến nó đóng chết các người vào mọi nhục nhã.

Thốt nhiên Chuyên cười một nụ cười của kẻ đã cảm-ngộ, của phút mù-quáng được khai thông, của kẻ chọc thủng lưới thoát chết:

– Ta sẽ về sống với Thọ.Ta sẽ làm công việc của Thọ. Ta sẽ lấy mồ hôi ta rửa hết các bất-bình. Ta sẽ làm, mặc cho thiên-hạ nghĩ về ta thế nào thì nghĩ. Ta xé tan bức màn thành kiến che mắt ta, làm cho ta chết trong nghèo nàn, nhừ tử trong sỉ-nhục, hộc máu trong dè-bỉu của thế-nhân.

Chỉ mấy ngày nữa thôi. Đời ta là của ta. Ánh sáng là của ta. Đường cái là của ta. Lửa là của ta. Bánh là của ta. Tay ta là của ta. Chân ta là của ta. Ta có quyền cười, ta có quyền đi, ta có quyền đứng, ta có quyền nhìn.

Ta giẫm lén thành kiến ác hại nó làm cho ta mấy trăm ngày sống cái đời con giun, con dế, sống cái đời cái rác, vỏ ốc.

Mẹ ta rồi thuộc về ta.

Em ta rồi thuộc về ta.

Cha ta rồi thuộc về ta.

Ta thuộc về ta.

Hỡi xích thành kiến! Từ phút này, máu ta đã làm chảy mày, biến ra nước. Mày bị tan «xác» bởi hai bàn tay nhễ nhại mồ hôi của ta.

Đất có thể hiểu lầm trời, núi non có thể oán hận nhau, ta thì không, rồi không ai có thể đày đọa ta. Ta là trời của ta. Ta là Cứu-thế của ta. Số phận của ta sẽ do ta định lấy. Ngày giờ của ta sẽ do ta dùng lấy.

Sức vóc của ta sẽ do ta giữ lấy, chặt cho tan cái xích thành kiến.

Ta là Cứu-thế của ta.

HẾT