Chương III (tt)
Người nhà đều đi vắng từ sáng sớm. Cha cô đi ra phố đòi tiền rau bán chịu cho chủ xe cam nhông. Mẹ cô đi chợ bán hoa. Nhưng ông không lợi dung cợ hội vắng vẻ một mình ông với Phượng,
Sân sóc cho Phượng xong, ông đứng dậy bảo cô:
- Cô vào nằm nghỉ để dưỡng bàn chân đau.
- Dạ cảm ơn ông. Tôi làm phiền ông quá.
Ông Giáo cười đùa:
- Tôi cũng làm phiền cô quá! Xin lỗi cô nhé!
Ông ân cần hỏi tiếp:
- Cô đã đọc hết quyển ‘‘Văn học Việt Nam hồi thế kỷ 17’’ chưa ?
- Dạ thưa ông, tôi đang đọc, gần hết.
- Thôi, chào cô nhé! Chúc cô nghĩ khỏe, và mau lành chưn.
Một lúc sau, Phượng thấy ông Giáo tiếp tục bón phân và bắt sâu cho mấy khóm hoa ở trước sân.
Một lần khác, chính là hôm Tất niên. Ông Giáo ở Sàigòn về Đà lạt nghỉ Tết. Ông về từ hôm hai mươi lăm, đem nhiều quà Tết biếu vợ chồng ông Cai và cô Phượng. Cảm lòng rất tốt của ông Giáo, hai vợ chồng ông Cai và cô Phượng đồng ý mời ông Giáo dùng bữa cơm Tất niên chiều ba mươi Tết. Ông Giáo vui vẻ nhận lời. Bảy giờ tối, cúng ông bà xong, cô Phượng và bà Cai dọn cơm trên bàn, ông Cai khăn đen áo dài lên biệt thự mời ông Giáo. Mọi khi ông Giáo ở Sàigòn về, giờ ấy ông đi ăn cơm tiệm. Tối nay ông ở nhà, một mình nằm ghế xích đu, xem sách. Nhà ông cũng trang hoàng Tết nhất như ai,
nhưng trên bàn thờ ông Cụ bà Cụ, ông Giáo chỉ chưng một bình bông vạn thọ, thắp đèn sáng, đốt một thẻ hương và một lư trầm, khói bay thơm phức. Lúc sáu giờ ông có rót hai chén trà đặt trên bàn thờ, và áo quần nghiêm chỉnh, ông đứng trước vong linh song thân cúi đầu mặc niệm. Xong mười lăm phút sau, ông đốt một phong pháo, theo đúng sở thích của ông Cụ hồi bình sanh. Tối nay, có nhiều bạn thân mời ông dự tiệc tất niên với gia đình họ: ông Bác sĩ, một ông Giáo sư trường Lycée, một ông Tham Lục lộ và một ông Phán Tòa. Nhưng ông đã xin lỗi tất cả viện lẽ là đã nhận lời mời của một người bà con.
Vợ chồng chú Cai gác dan và cô Phượng cảm ơn ông Giáo đã thương đến gia đình kẻ nghèo hèn tôi tớ mà dự bữa cơm xoàng của họ trong buổi tất niên. Bữa cơm rất thân mật vui vẻ, nhờ tính bình dân tự nhiên của ông Giáo, và cảmtình kính mến của gia đình chú Cai đối với chủ. Cô Phượng bẽn lẽn nhận ly rượu ngọt do lay ông Giáo rót mời cô sau khi ông mời vợ chồng ông Cai hai ly. Ông Giáo nâng ly, cười:
- Sáng mai mới là Năm mới. Nhưng sẵn dịp chúng ta vui đêm giao thừa nầy, tôi xin phép cô Mỹ Phượng chúc trước cô sang năm thành lập gia thất để ông Cai bà Cai được thấy cảnh gia đình nẩy nở thêm chồi thêm lộc!
Cô Phuợng thẹn đỏ mặt, chưa biết trả lời cách nào. Ông Cai có lời tiếp:
- Dạ thưa ông Giáo, đó cũng là điều ước mong của vợ chồng chúng tôi đấy ạ.
Cô Phượng đánh bạo đứng dậy nâng ly, mỉm cười ngỏ ông giáo:
- Tôi xin cảm ơn ông Giáo có mỹ ý chúc tôi. Tôi cũng xin phép ông Giáo cho tôi được hân hạnh kính chúc ông sang năm thăng quan tiến chức và cưới một cô giáo đẹp như tiên, để chúng tôi được thấy bóng hồng thấp thoáng bên cạnh ông, ở biệt thự đẹp đẽ này!
Mọi người đều cười rồ lên. Lần này ông Giáo có hơi thẹn, nâng ly ruợu ngọt uống một hơ, cùng một lượt với cô Phượng.
Mười ngày sau, trước khi trở xuống Sàigòn dạy học, ông Giáo ngồi rủ rỉ nói chuyện với vợ chồng ông Cai gác dan:
- Tôi không giấu với ông bà rằng tôi thương cô Phượng lắm. Nếu ông bà và cô Phuợng không thấy có điều gì trở ngại thì tôi ước mong được thành gia thất với cô. Tôi muốn có lời thành thật với ông bà, để ông bà dọ hỏi ý kiến cô, xem cô nghĩ sao. Sáng mai tôi đi Sàigòn. Khi nào được tin ông bà cho biết, nếu ông bà và cô Phượng nhận lời, thì tôi sẽ về Đà lạt sắp đặt lễ cưới tại đây. Nếu không, ông bà cũng đừng ngại. Công việc ở trong nhà nầy sẽ không có gì thay đổi. Ông bà cũng đừng ép buộc cô Phượng một câu nào, nên để cô hoàn toàn quyết định theo ý riêng của cô.
Ông Giáo về Sàigòn, hồi hộp mong mỏi cuộc hôn nhân với Phượng sẽ thành. Hơn nửa tháng sau, ông nhận được thư:
Đàlạt, ngày 22- 3 – 1948
Kính thưa ông Giáo,
Chúng tôi rất cảm kích tấm lòng nhơn từ độ lượng của ông không biết lấy gì đền đáp được ơn sâu nghĩa rộng của ông đã giúp gia đình chúng tôi được hãnh diện như ngày nay. Có điều vợ chồng chúng tôi rất đau đớn là việc cháu Phượng. Cháu nó rất cảm tình thương cao quý của ông, nhưng cháu tự xét thân cháu nghèo hèn không làm sao đền đáp được tấm lòng quảng đại vô song của ông đối với cháu. Một lẽ cháu tự nhận không đủ tư cách xứng đáng đi làm kẻ hầu hạ bên ông. Một lẽ nữa, cháu còn muốn ở vậy để nuôi dưỡng cha mẹ già, chưa nghĩ đến việc xuất giá vội. Chúng tôi đã hết lời khuyên giải cháu Phượng, vì cháu năm nay đã hai mươi hai tuổi rồi. Riêng phần chúng tôi thì quả tình chúng tôi thiệt lấy làm vinh dự được ông Giáo thương mến, và chúng tôi không thấy có chi trở ngại cả. Chỉ sợ rồi đây chúng tôi tuổi tác già nua, thấy con gái lớn mà chưa thành bề gia thất thì lấy chi an ủi được nỗi đau buồn của cha mẹ!
Thưa ông Giáo, hai vợ chồng chúng tôi hết lời phải trái cho cháu Phượng nghe, nhưng nó vẫn khăng khăng một lòng, xin ông Giáo Iượng tình tha thứ cho cháu. Cháu xin phép ông Giáo cho cháu một thời gian một năm nữa để cháu suy nghĩ rồi sẽ xin trả lời ông Giáo.
Dù sao cháu Phượng cũng rất cảm kích lòng thương quảng đại của ông. Cháu nhận thấy ông là bậc ân nhân duy nhất của gia đình chúng tôi. Cháu có nói thật với chúng tôi rằng đời cháu chỉ còn ý nghĩa khi nào cháu đền đáp được một phần nào tấm lòng thương cao quý vô lượng vô biên của ông đối với cháu và gia đình chúng tôi.
Xin ông Giáo tin nơi lòng tận tụy trung thành của vợ chồng chúng tôi, và xin ông lượng tình cho cháu Phượng.
Chúng tôi, vợ chồng và cháu Phượng, đều một lòng quý trọng ông và kính chúc ông sức khỏe dồi-dào.
Thư bất tận ngôn,
NGUY ỄN-VĂN-TẬP
ký.
Ông Giáo đọc xong bức thư, buồn bã nhưng quyết nhẫn nại chờ đợi một năm nữa. Bức thư ông trả lời ông Cai gác dan, khiến cho cô Phượng ngẫm nghĩ cảm động vô cùng:
Sài-gòn, ngày 31 -3- 1948.
Thân gởi ông Cai,
Tôi đã tiếp được thư ông, và xin thành thật cảm ơn ông bà những lời tâm phúc của ông bà đã tỏ cùng tôi. Tôi kính trọng tất cả những ý nghĩ của cô Phượng, và xin chờ quyết định của cô sang năm sau. Nếu chừng ấy cô Phượng vui lòng nhận lời cần khẩn tha thiết, và thành thật của tôi, thì đó là cô đem hạnh phúc vào cuộc đời của tôi vậy.
Còn nếu vì một duyên do gì tôi không được may mắn kết nghĩa trăm năm với cô, thì xin cô Phượng và ông bà cũng đừng ái ngại. Lòng thương mến của tôi đối với quý quyến sẽ không vì sự từ chối của cô Phượng mà giảm bớt một phần nào. Tôi sẽ luôn luôn là người bạn thành thật của quý gia đình.
Xin ông bà và cô Phượng tin nơi lòng quý mến trường cửu của tôi, và thân chúc ông bà cùng cô Phượng được vạn sự như ý.
TRẦN-TẤT-BẢO
Sau bức thư nầy bốn tháng, đến ngày 28 tháng 5 là ngày hai bên cha mẹ của Phượng và Tình đã định làm lễ thành hôn cho đôi trẻ trước đây hai năm. Là ngày Phượng đau đớn chờ mong Tình về, nhưng biệt vô âm tín. Vì quá thương nhớ Tình nên Phượng buồn rầu rồi đau, bịnh đau tim trầm trọng, đã được ông Giáo đưa cô xuống nhà thương lớn Sàigòn chữa bịnh.
Đêm nay cô đã bình phục trở về. Trong lúc cha mẹ cô bưng chai rượu trắng lên tạ ơn ông Giáo, ở nhà một mình, nằm trong gian buồng lặng lẽ, Phượng nghĩ ngợi lan man về duyên phận của cô mỗi khi thương nhớ Tình, và cảm kích lòng tốt vô song của ông Giáo. Thương nhớ Tình, Phượng khóc sướt mướt, phần thì lo sợ cho tính mạng của vị hôn phu, cho sức khỏe của anh có thể bị đánh đập tra khảo mà mang bịnh tật. Phần thì buồn rầu không biết bao giờ Tình về, bao giờ cùng anh được sum hợp một gia đình nghèo nàn nhưng ân yếm nhau đến mãn chiều xế bóng? Tuy hai năm qua. Phượng không nhận được một bức thư nào của Tình, hoặc một lời nhắn nhủ, hoặc một tin tức xa gần, nhưng Phượng vẫn còn yêu Tình, vẫn thương nhớ anh ngày đêm, lụy sầu chan chứa.
Vì thương nhớ Tình, người yêu mộc mạc của Rừng xanh núi thẳm, người vị hôn phu xấu số đã gặp tai ách hai tháng trước ngày thành hôn, vì cảm mến hoàn cảnh đau đớn của người tù không tin tức kia mà Phượng quyết giữ lòng chung thủy với anh. Vì thương nhớ anh, mà Phượng đã từ chối lời cầu khẩn đính hôn của ông Giáo. Sau trận đau trầm trọng mà đời cô chỉ còn mong manh như sợi chỉ, sau khi đã trải qua cơn bão táp sầu thảm của tương tư, đêm nay bình phục trở về nhà, Phượng cảm thấy lòng cô thêm tê tái thê lương Thật cô không ngờ ông giáo đối vơi cô có một lòng mến yêu cao thượng và nồng nàn như thế! Thành thật.
Sau khi suy xét lại tất cả những cử chỉ đàng hoàng âu yếm của ông Giáo, Phượng rất cảm thương người đàn ông tao nhã ấy. Cô không biết làm sao đền đáp lại một phần nhỏ tấm lòng ưu ái tha thiết của ông?
Tiếc thay, đời cô và thân phận của cô đã hứa cho Tình! Cho người tù xa cách đã hai năm, sống chết ở nơi nào, cô không biết được!
Phượng phân vân, đau khổ, sùi sụt khóc thâu đêm.