← Quay lại trang sách

Chương IV

CON nghĩ sao, chứ mẹ thấy ông Giáo quyết lòng chờ đợi con, mẹ áy náy lắm con à. Nói thiệt với con, mẹ ít thấy người đàn ông nào tử tế như ông Giáo. Chỉ một việc ông đối đãi với con rất là chu đáo, tận tụy, mà vẫn giữ gìn lịch sự trong lúc con đau nặng được ông đưa con đi nhà thương Sàigòn cả một tháng trời, cũng đủ là một ơn nghĩa lớn lao rồi vậy. - Thưa mẹ, con hiểu lắm chớ. Một người trí thức tài cao học rộng, Iại giàu sang như ông Giáo, và ở độc thân, mà không chơi bời trụy lạc giữa một xã hội mà phần đông đều là thối nát, thì thật là một người đáng kính phục. Người đàn ông như thế, cô con gái nào mà chả yêu?Ông có thể lấy người tài hoa hơn con, đẹp hơn con, xứng dáng hơn con. Nhưng ông vẫn quyết một lòng chung thủy thương con, đó đã là một hân hạnh cho con biết bao nhiêu rồi !

- Như vậy, sao con còn để ông chờ đợi làm gì? Mẹ sợ ông Giáo nghĩ rằng con là phận gái nghèo hèn mà thấy ông thương yêu, lại muốn làm cao. - Con tin một người như ông Giáo không bao giờ hiểu lầm con như thế. Không phải con bắt ông chờ đợi một năm. Con chỉ xin ông để cho con suy tính kỹ càng đã. - Con suy tính gì nữa? - Con đã nói với cha mẹ rằng con quyết chờ đợi anh Tình. - Hơn hai năm, nó có tin tức gì cho con đâu? Con đã đợi nó hơn hai năm, như thế con đã hết lòng với nó rồi. Con còn cứ ở vậy chờ đợi mãi được sao? - Con muốn chờ thêm một năm nữa. Con mới có hai mươi hai tuổi, chưa muộn gì . - Nhưng cha mẹ mỗi năm mỗi già, mỗi ngày mỗi yếu, con à. Cha con cũng như mẹ, đều mong sao con quyết định việc duyên nợ của con sớm chừng nào càng hay chừng nấy. Cha mẹ thấy con để ông Giáo chờ đợi con hoài như vậy, sợ ông buồn. - Dạ, thưa mẹ, con cũng biết ông buồn.Nhưng con tin rằng ông hiểu lòng con mà lượng tình tha thứ cho con. Nhờ Phật Trời che chở, may ra mai mốt anh Tình được tha về và con thành hôn với ảnh, thì chúng con cũng sẽ làm cách nào để đền đáp trong muôn một cái ơn nghĩa lớn lao và lòng thương vô Iượng của ông Giáo. - Mẹ hỏi thiệt con, lòng con có thiệt thương ông Giáo không? - Con thương ổng nhiều lắm . Con không bao giờ giấu diếm cha mẹ điều đó. Nhứt là từ khi ở Sàigòn về, con càng hiểu rõ ông, càng yêu ông nhiều hơn . Con yêu và con kính phục nữa. - Nếu con về làm bạn với ổng chắc chắn đời con sẽ sung sướng. - Con cũng biết như vậy. Con mà thành gia thất với ổng thì con sẽ được hạnh phúc đầy đủ. Cha mẹ cũng an vui tuổi già. - Thí dụ thằng Tình về đây và con lấy nó, mẹ chắc con không được hạnh phúc đầy đủ bằng. - Điều ấy đã dĩ nhiên rồi. Con đâu có so sánh anh Tình với ông Giáo. Nhưng anh Tình là người đầu tiên mà con đã trao duyên gởi phận. Lẽ nào trong lúc anh rủi ro gặp phải tai bay vạ gió, con lại phản bội lời thề hay sao? - Nhưng ngày nay phận lỡ duyên ôi, con đâu cố tình bội ước ? Cha con và mẹ đều nghĩ rằng trời xui khiến cho con được gặp ông Giáo, có lẽ là duyên tiền định đó con à . - Mẹ nói đúng, con không dám cãi. Nhưng con quyết chí đợi anh Tình một năm nữa.. . Để sau lương tâm của con khỏi có điều gìân hận.

Một năm ! Biết bao là biến cố đã xẩy ra cho Phượng trong một năm, vui có, buồn cũng có ! Một hôm, Phượng xin phép cha mẹ cho cô về thăm các người quen ở làng Tân phú. Đường Đà lạt Sàigòn lúc bấy giờ đã có xe chạy nhiều và thường xuyên, theo đoàn xe hộ tống của nhà binh Pháp mỗi tuần hai lần. Phượng đi xe đò lúc sáng sớm, định về Tân phú hỏi dò tin tức . Nhưng 11 giờ xe đi ngang qua Tân phú , Phượng kinh ngạc không dám xuống xe. Cô thấy tất cả mấy nếp nhà ở đó đều bị đốt cháy từ lâu, không còn một mái nào. Cả làng Tân phú chỉ còn những nền nhà trơ trụi, đầy những đống tro, than, và gỗ cháy đen thui nằm ngổn ngang ven đường quốc lộ. Không biết hỏi ai , Phượng nói chuyện với một bà già ngồi cạnh: - Cụ à, không rõ tại sao nhà cửa ở đấy bị cháy hết thế nầy, và cháy từ bao giờ, hả cụ? - Tôi cũng không được rõ, cô ơi ! Hồi trước Tết tôi có đi qua đây, thấy nhà cửa hãy còn, chuyến sau tôi đi Sài gòn , đã thấy cháy rụi. Hỏi bác tài xế, bác ấy bảo là bị nhà binh Pháp đốt sau trận phục kích ở Là ngà hồi tháng ba. Phượng đau đớn, làm thinh, đi xe thẳng xuống Biên hòa. Cô đến nhà bà Dì. Bà Dì đã chết . Cô hỏi cậu Tấn, con trai của bà, về tin tức cậu Tình. Tấn bảo : - Em nghe nói có một đoàn tù binh bị đưa ra làm dân công ngoài Trung, không biết ở miệt nào. Em đoán chắc là anh Tình cũng bị giải đi trong đoàn ấy. Còn ở Biên hòa đây thì lâu lắm, từ một năm nay em không thấy bóng anh Tình. Tin tức của ba má cậu Tình, Tấn cũng không biết. Ở Biên hòa, Phượng thất vọng, buồn rầu, khóc sướt mướt ngày đêm. Đến hôm có đoàn xe hộ tống, cô trở về Đà Lạt.

.

Người cô như thẩn thờ, chán nản. Lúc xe đi ngang qua chỗ làng Tân phú cũ, cô rưng rưng nước mắt nhìn các đám tro hoang vắng đìu hiu như đi ngang qua một nghĩa địa. Cô cảm thấy nơi đây đã chôn vùi tất cả những kỷ niệm đẹp đẽ của ngày tàn. Cuộc đời niên thiếu của cô đến đây là chết hẳn. Tình yêu ngây thơ diễm lệ nhất của cô, là tình yêu đầu tiên thơ mộng của tuổi vàng, đã nẩy nở nơi đây, vun bén nơi đây, bây giờ chỉ còn lại một đống than tro tan tác trong gió rừng ! Phượng ngờ đâu buổi sáng sớm Tình từ giã Phượng để đi Biên hòa, bóng Tình biến trong sương mù đã biến luôn trong tháng ngày vô định ! Phút phân ly Phượng nhìn theo bóng chàng, ngờ đâu lại là phút vĩnh biệt, than ôi ! Tuy nhiên, Phượng vẫn còn nuôi hy vọng. Cô tự an ủi : ‘‘Biết đâu một ngày gần đây, Tình sẽ trở về? Với hy vọng ấy, cô lại vui vẻ, nhẫn nại, lo làm công việc cho qua ngày đoạn tháng. Hôm lễ Nôen, ông Giáo ở Sàigòn về. Theo thường Iệ, mỗi khi có ngày lễ ông Giáo về Đà lạt nghỉ ngơi năm ba ngày, hoặc một tuần, ông đều có đem chút ít quà về biếu vợ chồng ông Cai giữ nhà, và cô Phượng. Nô-en và đầu năm dương lịch, ông được nghỉ mười ngày. Một buổi sáng trời nắng ấm, cô Phượng ngồi ngoài sân lột đậu một mình, ông Giáo thích việc trồng tỉa, xách một bình tưới hứng nước máy ở góc tường, đi tưới mấy rổ hoa ông mới trồng, ông mặc đồ pyjama, chân đi guốc, đầu không đội nón, tóc không chải phất phơ dưới nắng vàng. Tưới nước xong ông đi quanh trong vườn hái mấy cành hoa cúc Nhựt bổn đủ màu kết thành một bó hoa rất đẹp. Ông đến đưa Phượng : - Tôi tặng cô đây, cô Phượng à . Phượng mỉm cười đỏ ửng đôi má. Chính cô cũng là một đóa hoa tươi tuyệt đẹp. Cô đưa hai tay nhận bó hoa : - Dạ, xin cám ơn ông. - Hoa cúc nầy quý lắm, vì ở xứ ta ít có . - Dạ . - Cô đem cấm vào bình ngay, kẻo nó héo - Thưa ông, sao ông không để cắm trong phòng khách? - Phòng khách đã có nhiều hoa. Lúc sáng sớm, ba cô có cho tôi mấy cành lê dơn trắng đẹp quá. Phượng cầm bó hoa cúc Nhựt bổn, đứng dậy : - Xin phép ông, tôi đi cắm hoa vào bình. - Vâng.Tôi cũng xin phép cô trong lúc vắng cô, cô cho tôi ngồi lột đậugiúp cô nhé! - Dạ, không dám. - Thưa ông đi nghỉ kẻo mệt. Ông đã tưới hoa từ sớm đến giờ. - Không sao, tôi rất thích công việc làm vườn. Cô tính xem : ở Sàigòn cả ngày nầy qua ngày nọ, tháng nầy qua tháng kia, tôi cứ dạy mấy anh học trò của tôi những câu triết lý khô khan, và những bài luận văn chương tràng giang đại hải. Lâu lâu mới được dịp nghỉ về Đà lat. Tôi thấy không có thú nào hơn là thú về ẩn dật nơi điền viên tĩnh mịch, sống giữa màu sắc phấn hương hoa… Tôi yêu cảnh đẹp thiên nhiên, trong sạch, thanh tao. Tôi yêu tiếng thông reo, lời suối hát … Phượng tủm tỉm cười, ông Giáo sực thấy mình dạng mơ mộng... Sự thật, ông bỡ ngỡ muốn nói với Phượng một câu chuyện khác mà ngượng ngùng khó nói ra lời. Ngồi truoc71c mặt Phượng ông vẫn thấy bối rối mặc dầu hai người đã quen nhau gần ba năm, như người nhà rồi, chứ đâu phải xa lạ gì nữa! Lần này cũng không phải lần đầu tiên ông ngồi một mình với Phượng. Và câu chuyện ông muốn nói với cô hôm nay cũng đâu phải là câu chuyện đầu tiên! Hai người ngồi đối diện. Ở giữa là một đống trái đậu màu da nhung xanh dịu và một thùng đậu đã lột rồi. Ông Giáo và Phượng đều cúi đầu lặng lẻ lột đậu, hình như không có gì bận rộn trong ý nghĩ của họ. Nhưng một lát, Phượng nghe ông Giáo khẽ gọi: - Cô Phượng à. Phượng khẽ đáp : - Dạ. - Câu chuyện tôi đã nói với ba má cô trong bức thư đầu năm, có làm phiền cô không? - Dạ thưa ông, có phiền gì đâu ạ. - Cô Phượng à, tôi quý mến cô lắm. Cô xem, tôi năm nay ba mươi hai tuổi, mà từ ngày người vợ trước của tôi mệnh chung đến nay đã bảy năm tôi không cưới vợ khác, chỉ vì một duyên cớ là tôi muốn chọn bạn trăm năm hoàn toàn hợp với lý tưởng của tôi. Sự ngẫu nhiên mà tôi tin rằng do trời định trước đã cho tôi được thoảng thấy bóng có một buổi sáng sớm ở một khu rừng. Ngay từ giây phút huyền bí ấy tôi đã cảm thấy như gặp được người trong lý trưởng. Ba năm qua, mỗi lần được dịp tiếp xúc với cô, tôi càng hiểu rõ tư cách của cô càng quý mến cô nhiều. Cho nên tôi đã thành thật ngỏ ý với cô ba lần. Tuy cô từ chối nhưng tôi vẫn hy vọng. Hôm nay, sẵn ngày lễ tôi về đây, tôi mong được biết ý kiến của cô một lần nữa, trước khi tôi trở xuống Sàigòn. Phượng suy nghĩ một lát, rồi hỏi: - Thưa ông, hôm nào ông đi Sàigòn? - Sáng mốt. Tôi nghỉ lễ được mười ngày. Tôi về Đàlạt đã tám ngày rồi.

Ông Giáo và cô Phượng đều cúi mặt xuống lột đậu, không ai dám ngó ai. Khi cả hai đều làm thinh, một im lặng đầy rạo rực trong lòng của mỗi người, như thông cảm cùng nhau dịu dàng êm ái. Phượng mặc quần vải đen, áo bà ba trắng mới ủi, một làn tóc đen mướt chảy óng ánh xuống lưng. Đôi má trái soan, ửng một màu hồng tự nhiên và đôi môi đỏ tươi không phớt qua một làn son phấn. Dưới ánh nắng vàng ấm dịu phảng phất hương hoa, Phượng ngồi trên một góc chiếu, hai bàn tay mủm mỉm nõn nà ung dung lột đậu. Ông Giáo cũng ngồi trên góc chiếu làm công việc như Phượng. Một lát im lặng, ông nói tiếp: - Cô Phượng ạ, nếu cô có điều chi thắc mắc, xin cô cứ nói thật cho tôi rõ. Đã biết tôi gần ba năm nay, chắc cô cũng đã thấy tính tôi rất thích sự thành thật. Tôi xin nói một lần nữa để cô rõ ràng cô hoàn toàn tự do định đoạt một vấn đề quan hệ trực tiếp đến duyên phận của cô. Tôi không muốn có một sự ép buộc nào dù là một ép buộc về tinh thần. Nếu có xét thấy có một vài trở ngại gì trong việc cầu hôn của tôi, tôi xin sẵn sàng rút lời và không muốn để phiền cô một tý nào nữa. Tôi sẽ không giận cô, không oán trách cô. Trái lại, tôi vẫn luôn luôn là người bạn quý mến cô và giúp đỡ cô trong tất cả các cơ hội. - Dạ thưa ông, tôi hiểu ông nhiều lắm, và tôi rất cảm động được ông tỏ tình thương chân thật và cao quý như thế. Tôi tự xét thân phận hèn mọn của tôi không biết làm sao xứng đáng với tấm lòng tha thiết quảng đại của ông... Tôi tự thẹn cho tôi nhiều lắm... Tôi thấy đời tôi khổ lắm ông ạ... Phượng bỗng nghẹn lời, nói không được nữa. Hai ngấn Iệ rưng rưng trên mắt, Phượng chỉ lẩm bẩm được mấy tiếng : ‘‘Xin lỗi ông...’’ rồi cô đứng dậy vụt chạy vào nhà. Phượng khép cửa buồng, gục đầu xuống giường khóc nức nở . Lần nào ông Giáo đi Sàigòn, khi ông lên xe vợ chồng ông Cai và cô Phượng cũng thân mật ra chờ trước sân để tiễn ông. Nhưng lần này ông Giáo vui vẻ bắt tay ông Cai, chào bà Cai, mà không thấy cô Phượng. Ông khẽ hỏi: - Cô Phượng có nhà chứ ông Cai ? - Dạ, thưa ông, cháu ở trong nhà … Cháu bị chóng mặt, không ra chào ông được… - Tôi vào thăm cô một chút được không? - Dạ, mời ông vào nhà. Ông Giáo đi thẳng xuống nhà gác dan, vào gõ cửa buồng cô Phượng. Cánh cửa mở, Phượng bẽn lẽn, không còn vẻ tự nhiên như trước. Ông Giáo đứng ngoài thềm cửa âu yếm hỏi: - Cô mệt sao, cô Phượng? - Dạ không có sao. Thưa ông, sáng nay ông đi Sàigòn? - Vâng. Ông Giáo lấy trong túi áo ra mộT phong thư đã viết sẵn để trao cho Phượng: - Đây là mấy lời tạm biệt cô. Tết tôi lại về. Phượng nhận thư. Ông Giáo khẽ nghiêng đầu chào và ông vừa ra khỏi cửa. Phượng đã ngồi xuống giường mở thư ra coi.

Đà. lạt 2-1-1949. Cô Phượng thân mến, Tôi hồi hộp mong đợi câu trả lời của cô. Hôm nào cô muốn cho tôi rõ ý định dứt khoát của cô, xin cô vui lòng viết thư theo địa chỉ kèm đây. Tôi cầu nguyện Phật Trời phù hộ cho cô luôn luôn vui vẻ khỏe mạnh. Thành thật quý mến cô TRẦN –TẤT-BẢO

Ông Giáo có dụng ý kèm theo một phong bì có dán tem và để sẵn địa chỉ của ông ở Sàigòn. Xem xong thư, Phượng nằm ngửa lên giường, cầm thư để trên ngực, nhắm mắt suy nghĩ một hồi lâu . Lần này có lẽ cô đã quyết định.

Nhưng Phượng chưa vội viết thư trả lời ông Giáo. Một buổi sáng gần giữa tháng chạp, Phượng soạn đồ đạt trong rương, các quần áo đẹp của cô và của mẹ cô ít có dịp mặc tới, xếp cất trong rương từ lâu. Gần Tết, sẵn trời nắng tốt cô lấy ra phơi hết một lượt. Khi dủ chiếc áo cưới màu hồng của Tình ra để giăng trên giây, Phượng giựt mình, gọi mẹ: - Mẹ ơi !Mẹ ! Bà Cai ở trong bếp đủng đỉnh đi ra : - Cái gì đó con? Phượng đang mân mê chiếc áo cưới màu hồng, rưng rưng nước mắt: - Mẹ ơi ! gián hay chuột gì cắn nát hết cái áo của con đây nè ! Mẹ ra coi ! Bà Cai ra chỗ giây phơi đồ. Bà cầm áo coi kỹ: - Đây là gián nhấm... Thôi, chết rồi ! Nát cả cái áo !... Vạt trước, vạt sau, trên lưng, trên vai, trên tay, nó cắn rách loang lỗ thế nầy mặc làm sao đặng nữa? Mấy áo khác xếp gần đấy cũng bị gián nhắm nhưng ít hơn. Riêng chiếc áo cưới màu hồng đã thành ra vô dụng. Bà Cai chậm rãi nói: - Mẹ còn nhớ năm ngoái con nói với mẹ : ‘‘Chừng nào chiếc áo cưới màu hồng này rách mà anh Tình chưa về thì họa may con mới lấy người chồng khác.’’ Mẹ hỏi lại con: ‘‘chiếc áo hồng không bao giờ con mặc thì làm sao nó rách được ?’’ Con trả lời: ‘‘Thưa mẹ, nó còn nguyên vẹn mãi thì tình yêu của con với anh Tình cũng còn nguyên vẹn mãi.’’ Hồi đó, nghe con nói như vậy, mẹ cũng tưởng rằng không bao giờ chiếc áo cưới màu hồng của con rách được. Ai có ngờ đâu hôm nay...! Phượng không trả lời. Cô buồn bã đau đớn bỏ vào buồng nằm. Ba hôm sau, có viết thư gởi ông Giáo:

Đà lạt, ngày 16 tháng chạp. Kính thưa ông Giáo, Xin ông tha thứ cho tôi đã chậm trả lời. Sau khi suy xét cặn kẽ về hoàn cảnh của tôi, tôi thấy tôi không còn can đảm từ chối một lần nữa tình yêu mến thành thật rất cao quý của ông. Tôi hân hạnh và vui vẻ nhận lời cầu hôn của ông. Về lễ thành hôn, Tết nầy ông về Đà lạt chúng ta sẽ lo liệu. Thân ái chào ông và chúc ông khỏe mạnh

MỸ - PHƯỢNG

Ông Giáo mừng rỡ được thư Phượng gần đúng kỳ nghỉ Tết. Hai mươi tháng Chạp ông về Đà lạt. Với sự đồng ý hoàn toàn của cha mẹ cô Phượng, ông Giáo và cô ấn định hôn lễ cử hành giản dị trong gia đình ngay buổi sáng Mồng một Tết. Nhân dịp này nhà ông Cai được trang hoàng lịch sự. Chung quanh Phượng, mấy cô em họ và bạn của cô, yêu kiều thướt tha, nô đùa cười giỡn rộn rịp trong nhà. Mỹ Phượng đẹp lộng lẫy. Cô vẫn không phấn sáp, nhưng khuôn mặt trái xoan đều đặn, đôi má ửng hồng, đôi môi thắm tươi, hai bên búp tai lóng lánh đôi hoa hột xoàn rực rỡ. Một tia vui mừng chiếu ngời trong cặp mắt ngà diễm lệ, huyền mơ. Hôm nay Phượng bới tóc, một mái tóc dịu dàng làm nổi bật gương mặt thần tiên của cô. Cô mặc chiếc áo nhung màu xanh da trời, mang đôi giày nhung xanh. Một cô em họ nhí nhảnh trầm trồ khen ngợi: - Ồ ! Chị đẹp quá, chị Phượng à ! Phượng cười tự nhiên : - Hôm nay là ngày Tết, ai mà chả đẹp hả em ! Một cô bạn nhỏ, mười sáu tuổi, tên là Lê thị Hiền, tiếp lời: - Hôm nay là ngày Tết chung của mọi người mà lại là ngày Tết riêng của chị! Phượng dịu dàng kề tai nói nhỏ cô Hiền: - Chị mong rằng trong ba bốn năm nữa, ngày Tết chung của mọi người sẽ là ngày Tết riêng của em ! Tất cả mấy cô quanh quẩn đấy đều cườ rồ lên và vui vẻ liệng hoa giấy cho nhau, đầy đầu đầy mình. Đúng mười giờ. ông Giáo Trần Tất Bảo đi với vợ chồng ông Bác sĩ và vợ chồng ông Đốc học, là hai đôi bạn thân nhất của ông, từ biệt thự qua một sân rộng đầy hoa nở, đến nhà ông Cai. Ông Giáo mặc quốc phục, khăn đen, áo sa ten đen. Gần đến nhà, ông Cai đốt một phong pháo đón mừng ông Giáo và quý khách.

Mười lăm phút sau, cô Mỹ Phượng dạn dĩ và tự nhiên, từ trong phòng bước ra, cúi đầu chào mọi người, rồi cùng ông Giáo đến đứng hai bên bàn thờ. Ông Cai thắp đèn hương, đốt lư trầm, đứng nghiêm trang khấn vái ông bà để báo tin lễ thành hôn cho con gái. Ông lạy ba lạy. Đến lượt Mỹ Phượng và ông Giáo cùng làm lễ một lúc. Lễ xong, tự tay ông Giáo lấy một hộp vuông vức mới tinh đã để sẵn trên một bàn con kê trước bàn thờ. Ông mở hộp ra, lấy một chiếc nhẫn cưới đeo vào ngón tay áp của tân giai nhân. Mỹ Phuợng cũng tự tay lấy trong hộp một chiếc nhẫn cưới đeo vào ngón tay của ông Giáo. Cặp vợ chồng mới âu yếm nhìn nhau, mỉm cười, cô Hiền thấy cử chỉ tình tứ đẹp đẽ quá, cô vỗ tay cười, khiến cho tất cả chủ khách hai bên đều vỗ tay lên một loạt, xen với tiếng vui cười nô nức. Ông Giáo và cô Phượng đến trước mặt ông Cai bà Cai và cúi đầu vái ba vái, theo lễ giáo Việt nam, để tạ ơn cha mẹ. Nhưng cha mẹ cô Phượng cũng Iịch sự nghiêng đầu đáp lễ lại ông Giáo, vị ân nhân của gia đình. Lễ cưới xong, ông Cai ra sân đốt một tràng pháo. Mấy cô em họ và bạn của Phượng vui vẻ dọn bánh mứt lên bàn đãi quan khách, cô bạn nhỏ Lê thị Hiền tủm tỉm cười bưng ra mời riêng ông Giáo một dĩa bánh cưới xinh xắn, trên mặt bánh có in hình một con chim phượng hoàng rất mỹ thuật. Mọi người đổ xô lại coi, khen ngợi cô Hiền, và buộc đôi tân lang và tân giai nhân phải ăn hết mỗi người một nửa, Hoa giấy đủ màu bay ra tứ tung, hòa lẫn với hoa cười tươi thắm, trong lúc tiếng pháo mừng xuân nổ vang dậy cả núi rừng Đàlạt... Vừa đúng mười hai giờ. Ông Giáo và Mỹ Phượng tiễn vợ chồng ông Bác sĩ và vợ chồng ông Đốc học ra đến xe của họ đậu trước sân. Ông Giáo niềm nở bắt tay cảm ơn các bạn lúc họ lên xe. Mỹ Phượng nhã nhặn khẽ cúi đầu chào. Năm giờ chiều tại biệt thự, ông Giáo và Mỹ Phượng mở một tiệc trà thân mật khoán đãi các bạn bè thân thuộc của đôi bên. Giấy mời và thiệp cưới mới gửi hôm hai mươi lăm tháng chạp, nhưng quan khách ở ĐàIat và nhứt là ở Sàigòn lên rất đông, chật ních trong nhà và đây cả ngoài sân rộng. Mỹ Phượng vừa tuyệt đẹp, vừa nhu mì khiêm tốn, lại niềm nở bặt thiệp, gây được cảm tình nồng hậu của tất cả mọi người. * * * Chín giờ đêm Mồng một Tết. Quan khách đã lần lượt ra về. Ông Giáo đóng cửa, đưa vợ lên phòng riêng ở trên lầu. Đứng cạnh bình hoa Iê dơn hồng như đôi má của Phượng, trước chiếc giường trải nệm trắng tinh, ông Giáo đặt hai bàn tay lên hai vai Mỹ Phượng, âu yếm nhìn nàng: - Em ! Phượng nhoẻn một nụ cười đầy tình tứ yêu đương : - Anh ! Ông Giáo khẽ ôm Phượng vào lòng, má kề má …………… ............................................ Một hồi lâu, ông Giáo đê mê nhìn cô vợ trẻ : - Mình ạ, mọi khi mình đẹp hơn tất cả các người đàn bà trên trái đất, hôm nay mình đẹp hơn tất cả trời đất, cả Vũ trụ ! Phượng sung sướng, mỉm cười, âu yếm tựa đầu vào vai chồng: - Em đâu cô đẹp như mình khen. Nhưng nếu em đẹp, cũng là đẹp của riêng mình thôi.