← Quay lại trang sách

Chương V

PHƯỢNG theo chồng về Sàigòn, ở biệt thự đường Testard.

Trong bảy năm ở độc thân, ông Giáo ngày hai buổi đi dạy học, trưa chiều ăn cơm tiệm, ông chỉ nuôi một bà xẩm già, đáng tin cậy để coi nhà và quét tước dọn dẹp. Bây giờ có vợ, ông mướn thêm một chị bếp để đi chợ với Phượng và nấu nướng.

Thời khắc biểu của Phượng Ià của một người nội trợ đảm đương và thông minh. Buổi sáng dậy sớm lo bữa điểm tâm, rồi đi chợ cùng một lượt với chồng đi dạy học. Mười giờ coi việc bếp núc, sửa soạn bữa trưa đợi chồng về. Chiều, chồng đi dạy, cô đóng cửa ở trên lầu, đọc các sách của ông Giáo mua về, để trau dồi văn hóa.

Năm giờ cô xuống phụ với chị bếp, sửa soạn bữa cơm tối. Tám giờ cơm nước xong, ông Giáo soạn bài, cô xem sách, hoặc hai vợ chồng đi xem chớp bóng, đi nghe diễn thuyết, hay dạo mát trên bờ sông. Phần nhiều các buổi tối, đôi vợ chồng chỉ thích nằm nhà, chuyện trò âu yếm. Phượng mê nghe những câu chuyện của chồng, rất lý thú và bổ ích cho sự mở mang trí óc của cô. Ông Giáo cũng thích nghe Phượng nói về công việc trồng tỉa bông hoa, và các chuyện mộc mạc lý thú, nhiều khi rất cảm động, của các giới cần lao thợ thuyền hay thôn dã. Hai người tâm đầu ý hợp nhau lắm, và mỗi ngày họ càng hiểu nhau thêm, càng yêu quý nhau nhiều hơn. Phượng đối với chồng, vừa yêu, vừa kính, vừa phục. Ông Giáo cư xử với vợ vừa là người chồng, người tình nhơn, và người bạn tri kỷ. Họ tin nhau hoàn toàn, và cả hai đều dịu dàng hòa nhã, phước hậu. Một tháng sau lễ cưới, một buôi tối thứ Bảy ông Giáo vừa vặn máy phát thanh trổi lên một bản nhạc, thì Phượng đứng sát cạnh chồng, một tay âu yếm choàng trên vai ông, đầu tựa vào vai bên nầy, bẽn lẽn gọi chồng:

- Mình!

Ông Giáo ngó Phượng với đôi mắt dịu dàng say đắm, và mỉm cười trông thấy vẻ mặt thẹn thùng của vợ:

- Anh đoán mình muốn nói gì rồi.

Phượng mân mê chiếc cravate của chồng:

- Mình đoán chắc đúng. Em bắt đầu có thai mình ạ.

Ông Giáo tủm tỉm cười:

- Anh đã biết lúc trưa khi thấy mình muốn nôn.

- Mình tài quá.

Ông Giáo khẽ kéo Phượng ôm vào lòng, và hai người hôn nhau... ghi dấu nỗi niềm vui mừng, sung-sướng ấy.

Họ yêu nhau tha thiết quá, vừa buông ra, nhìn nhau thật tình tứ một phút, rồi lại môi kề môi hôn nhau say sưa …trong lúc bản nhạc của máy phát thanh tiếp tục trầm bổng du dương.

Sáng chủ nhật, ông Giáo lái xe ra phố một mình. Phượng muốn đi với chồng, nhưng ông cười, có vẻ bí mật:

- Không. Mình ở nhà nghĩ cho khỏe. Anh đi một lát về ngay,

Sự thật, là ông định để dành cho Phượng một ngạc nhiên.

Ba mươi phút sau, ông chở về một máy may thật đẹp, gồm cả máy thêu. Phượng reo mừng, sung sướng. Ông bảo:

- Anh tặng mình cái máy kiểu mới nầy, để mình may và thêu không mỏi mệt,

Phuợng hôn chồng, rồi thỏ thẻ nói:

- Em cảm ơn mình. Nhưng mình biết em bắt đầu may và thêu cho ai không?

- Cho con.

- Mình giỏi quá... Rồi cho ai nữa?

- Cho... mình.

- Không! cho chồng em trước chứ!

Ông Giáo âu yếm vỗ vai vợ:

- Mình đáng quý lắm. Lúc nào mình cũng nghĩ đến anh. Nhưng anh thích mình may thêm đồ cho mình trước, vì mình thiếu áo mặc.

Phượng cười:

- À quên! Mình có hai sơ mi rách cổ. Mình bằng lòng cho em khánh thành máy may ngay bây giờ không?

- Bằng lòng... Nhưng anh quên mua chỉ!

- Nhơn tiện, mình cho em đi ra phố với mình nhé? Chúng ta mua chỉ may và các thứ chỉ thêu luôn.

- Phải đấy.

Phượng không cần trang điểm, chỉ mặc cái áo dài vào, rồi cùng ra xe, ngồi cạnh chồng.

.

Phượng ở Sàigòn với chồng được bốn tháng, đến kỳ nghĩ hè. Vợ chồng về Đàlạt, đem cả chị bếp và máy may theo. Ở biệt thự đường Prenn cũng đã có nhiều thay đổi, theo ý muốn của ông Giáo từ sau khi cưới Phượng. Vợ chồng ông Cai bây giờ đã già yếu, không thể làm vườn được. Ông Giáo mời hai ông bà lên ở biệt thự tại đây ông để giành riêng một căn buồng khá rộng ở từng dưới, giữa phòng ăn và phòng khách. Trước kia, buồng này được dùng làm thư trang của ông Giáo, có cửa sổ rộng ngó ra sân hoa và vườn rau. Trong buồng có lò sưởi.

Dọn dẹp trang hoàng mời vợ chồng ông Cai về ở ông Giáo dời thư phòng của ông lên lầu, cạnh phòng ngủ. Ở Sàigòn về, ông Giáo và Phượng ở trên lầu, riêng biệt và tĩnh mịch. Máy may của Phượng cũng để trong thư phòng, tại đây có cả một thư viện gồm ba bốn trăm quyển sách Việt, Pháp. Anh, có ghế dài để nằm đọc sách, bàn viết, máy phát thanh, lò sưởi. Phượng và ông Giáo chỉ xuống dưới nhà trong các bữa ăn, hoặc tiếp khách, hay dạo vườn hoa, vườn rau.

Nhà gác dan bây giờ để hai vợ chồng anh làm vườn trọ, từ Quảng nam mới tản cư vào, ở làm công cho ông Cai. Hoa lợi nhà vườn vẫn để ông Cai hưởng hết, y như trước. Bà Cai vẫn nuôi gà, vịt, để bán.

Nghe Phượng nói đã có mang bốn tháng, bà Cai vui mừng khôn xiết. Bà chỉ bảo cho con gái những cách thức dưỡng thai và ăn uống kiêng cử trong thời kỳ thai nghén.

Ba tháng hè. Phượng nghỉ ngơi, không làm việc gì nặng nhọc. Ông Giáo cũng không cho vợ

đạp máy may nữa. Có điều đôi vợ chồng trẻ không vui, là mãn kỳ nghỉ hè ba tháng Bác sĩ khuyên ông Giáo đi Sàigòn một mình, nên để bà Giáoở lại Đà lạt, vì Phượng đã có mang bảy tháng, sợ rủi ro dọc đường.

Ông bà Bác sĩ là bạn thân trong gia đình đều đồng ý không nên để Phượng đi xa trong lúc gần sanh nở. Bà Đốc bảo:

- Đường sá lúc này không đuợc an ninh. Để bác gái đi,sợ dọc đuờng xe gặp phải tai nạn, thì

khó khăn lắm, Bác à. Một mình bác trai có thể xoay xở được, chứ có bác gái đi nữa thì thật là bất tiện. Nhỡ xẩy ra chuyện gì bất trắc, bụng mang dạ chửa, bác sẽ Iàm thế nào? Chi bằng bác trai cứ về Sàigòn một mình, ở trên này bác gái đã có hai Cụ và chúng tôi săn sóc cho. Bác đừng lo ngại gì cả.

Thật ta, Phượng không muốn xa chồng, và ông Giáo cũng khôrg muốn vắng mặt vợ, nhưng lời nói của vợ chồng ông Bác sĩ có ảnh hưởng đến sự định đọat cuối cùng của ông Giáo bà Giáo

Phượng tiễn chồng ra xe, lòng nao nao buồn. Hai ngấn lệ chạy quanh trong đôi mắt ngà, Phượng cầm bàn tay của chồng, đưa lên môi hôn. Ông Giáo nắm tay vợ:

- Anh đi, nhưng trái tim của anh và tâm hồn của anh, anh để hết lại cho mình. Anh đem theo hình ảnh yêu quý của mình, là tia sáng của tất cả đời anh, là nguồn an ủi duy nhất của anh trong những ngày ly biệt.

Xe ông Giáo ra khỏi cổng, vùn vụt xuống dốc Prenn, cô vợ trẻ có mang còn đứng góc cây xá lị, buồn bã ngó theo.

Trong thời gian vắng ông Giáo, Phượng ít xuống nhà, trừ những bữa cơm cô ăn chung với cha mẹ già, và tiếp vài người bạn thân.

Cô chỉ quanh quẩn trên lầu, nằm ghế dài coi sách hàng giờ, hoặc ngồi thêu tay những chiếc áo và mũ xinh xắn cho đứa con sắp ra chào đời. Gặp những giờ phát thanh, cô mở máy nhưng thích mở nhỏ để nghe văng vẳng những điệu đơn xa lạ của ngoại quốc. Cô ôn lại những bài Anh ngữ cô đã học của chồng được sáu tháng, biết khá nhiều. Cô rất thích ở trong thư phòng của ông Giáo, nơi đây cô đã quen với không khí đầm ấm thanh tao của văn nghệ. Cô nhớ ở Sàigòn một hôm sẵn bút chì xanh đỏ của chồng, cô thử vẽ chơi một vài bức tranh thiên nhiên xứ Mọi. Ông Giáo thấy đẹp, và lần đầu tiên khám phá được một tài ba họa sĩ bất ngờ, tiềm tàng trong hoa tay của vợ. Ông liền khen ngợi và khuyến khích cô. Từ hôm ấy, Phượng luyện tập bồi bổ về hội họa, bên cạnh người chồng Giáo sư văn chương và triết học theo dõi một cách chăm chú và say mê những phát triển phi thường của cô vợ tài hoa.

Vắng ông giáo, Phượng thỉnh thoảng vẻ những bức tranh rừng núi với những màu sắc kỳ diệu để gởi tặng chồng.

Một buổi sáng nắng đẹp, Phượng xuống sân bắt sâu cho những khóm hoa hồng. Tự nhiên, cô sực nhớ cảnh lột đậu ở trước sân, giữa ông giáo và cô hồi lễ Nô ên năm ngoái,

Cô ngồi trên chiếc ghế mây dưới bông hoa xá lị, hồi tưởng lại rõ ràng tất cả những chi tiết của ký ức êm đềm đẹp đẽ ấy. Cô mỉm cười sung sướng, rồi nhớ lại lần hồi những kỷ niệm lý thú khác... Cô đứng dậy, đi thong thả xuống vườn rau, ra đến mương, đứng nhìn miếng ván mục đã làm cô té, nay còn nằm ngâm dưới nước và tấm ván cầu vững chắc do ông Giáo tự tay bắt qua mương. Cô nhớ rõ lại những cử chỉ rất đáng yêu của ông Giáo trong các trường hợp ấy, cô hãy còn là một cô gái nông dân, con người gác dan của ông Giáo.

Do sự liên hệ tư tuởng, dần dần cô nhớ lại cậu Tình, vị hôn phu cũ của cô hồi ba năm trước. Cô bẻ một lá bạc hà lớn mọc nơi bờ mương, trải lên cỏ để cô ngồi. Cô mơ tưởng đến Tình, người yêu xấu số mà cô không thể nào chờ đợi được nữa, bởi ba năm anh lưu lạc nơi nào, biệt vô tín. Vì yêu anh, Phượng đã đau khổ buồn rầu trong ba năm trời. Vì yêu anh, Phượng đã từ chối hai lần tình thương thiết tha trung thành của ông Giáo. Vì yêu anh, Phượng đã quyết chí chờ đợi anh về, để giữ vẹn lời thề chung thủy với người yêu đầu tiên đã tặng cô chiếc áo cưới màu hồng hai tháng trước ngày hôn lễ. Nhưng than ôi, hoàn cảnh của Phượng không cho Phượng giữ được mối chung tình... Cha già mẹ yếu mà phận lỡ duyên ôi. Cô đã cố gắng kiên nhẫn trong ba năm, nay cô đành bội ước, không còn hy vọng ngày tái ngộ với Tình. Nhưng dù sao, Phượng vẫn thương Tình. Phượng vẫn không sao quên hẳn được tình yêu đầu tiên, mộc mạc nhưng cảm động, đã nẩy nở trong núi rừng hoang, và... đìu hiu lạnh lẽo như núi rừng hoang!

Phượng buồn bã đứng dậy đi vào nhà. Cô ghé trước tiên vào gian nhà gỗ của gác dan, nơi đây còn để biết bao nhiêu là kỷ niệm trong ba năm ở với, mà bây giờo73là nhà trọ của vợ chồng người làm vườn mới đến. Cô bước vô nhà,đi đủng đỉnh, đứng trước cửa buồng của cô. Cô ngó vô buồng, lòng ngậm ngùi ảm đạm. Cô trở ra gặp vợ chồng người làm vườn tay lấm chân bùn, cung kính cúi đầu chào:

- Thưa bà chủ.

Cô dịu dàng đáp:

- Tôi không dám. Chào anh ba và chị ba.

Cô mỉm cười nói tiếp:

- Xin lỗi anh chị nhé. Tôi vừa vô xem qua gian nhà trong lúc anh chị mắc tưới rau ngoài vườn.

Vợ chồng người phu vườn kính cẩn đáp:

- Dạ, xin bà chủ đừng ngại.

- Phượng hiền lành nhã nhặn:

- Cảm ơn anh chị. Chào anh chị.

- Dạ, xin chào bà chủ.

Phượng trở về biệt thự, vào ngay căn phòng riêng của cha mẹ cô. Bà cai đang ngồi têm trầu, âu yếm hỏi cô:

- Con đi chơi ngoài vườn, đã về?

- Dạ...

Cô ngồi xuống chiếc ghế mây, thở một lúc, rồi khẽ hỏi bà Cai:

- Mẹ à, chiếc áo cưới màu hồng của anh Tình cho con, còn trong rương chớ, mẹ?

Bà Cai làm thinh một hồi lâu mới chậm rãi trả lời:

- Hãy còn đó... Con hỏi chi vậy?

Phượng buồn bã:

- Con hỏi cho biết đó thôi.

- Hôm mấy tháng trước con còn ở SàiGòn, mẹ có soạn lại đồ trong rương, thấy áo bị gián nhấm hư hết như con đã biết, nên mẹ muốn lấy cho chị Tư Lò gạch. Vì chị ấy nghèo hơn mình. Nhưng không biết ý con thế nào, nên mẹ do dự, để lại đó. Nếu con muốn cho chị Tư, thì bữa nào chị lên mua hột vịt, mẹ cho chị.

- Con muốn lấy ra coi.

Phượng đứng dậy, định đến mở rương, nhưng bà Cai bảo:

- Con ngồi đó, để mẹ đi soạn ra cho.

- Dạ con soạn cũng được.

Phượng đến mở chiếc rương cũ của cô, còn y nguyên khóa cũ, để dướl đầu gầm giường lấy hết một chồng quần áo mới của bà Cai, để lên giường, Phượng thấy gần đáy rương chiếc áo cưới màu hồng còn xếp y nguyên như trước. Màu hồng vẫn còn tươi như lúc Tình mới mua. Phượng rũ áo ra xem lại những chỗ bị gián cắn. Cô bảo:

- Mẹ à, áo nầy mạng lại còn mặc được... Có lẽ mạng tay khéo hơn mạng máy... Bây giờ con rảnh, để con đem lên lầu, mạng thử coi.

- Con mạng lại để con mặc sao?

- Dạ không. Con đâu có mặc nữa. Không phải vì con chê áo rách, nhưng vì là chiếc áo cưới của anh Tình. Con với ảnh không có duyên hội ngộ, nay con đã có chồng thì dù là áo gấm mới tinh của ảnh cho, con cũng không thể nào mặc được. Nhưng con mạng lại tử tế để mẹ cho chị Tư Lò Gạch.

- Con làm sao đó con làm.

Phượng ngồi giường mẹ, tay mân mê chiếc áo cưới vô duyên mà cô chưa mặc một lần nào trừ hôm đầu tiên cô thử áo. Phượng suy nghĩ một lát, rồi nói:

- Tội nghiệp anh Tình! Ảnh cũng thương con nhiều lắm, chỉ vì một việc rủi ro bất ngờ mà hai đứa đành phải cách xa đôi ngã, duyên nợ không thành! Ngày nay con đã thành gia thất với người khác, đời con đã sung sướng giàu sang, còn ảnh thì... Biết đãu ảnh đang bị đày dọa trong một cảnh lao lù, hay phiêu lạc nơi chân trời góc bể, chịu phong ba bão táp của một kiếp người lận đận!... Nghĩ đến anh Tình, con vẫn không sao không thương nhớ ảnh được! Nếu ngày nay con biết ảnh bị hoạn nạn nơi nào mà con có thể cứu giúp ảnh được, con cũng không từ chối.

Phượng buồn bã cúi xuống ngó chiếc áo hồng nằm hẩm hiu trong lòng cô. Hai hàng lệ long lanh khóe mắt, rơi trên tà áo.

Cô trở ra, cầm áo đứng dậy. Đi ngang trước mặt bà Cai, Phượng khẽ chào:

- Mẹ nghỉ. Con xin phép mẹ, con lên lầu.

Phượng đóng cửa thư phòng, ngồi một mình với chiếc áo. Cô đếm kỹ tất cả bị muời hai chỗ gián cắn lủng, và năm chỗ bị nhấm sợi gần rách. Bỗng Phượng nẩy ra một ý nghĩ: ‘‘Hay là ta lấy chỉ tơ đỏ thêu hoa Phượng trên những chỗ gián nhấm để che lấp những chỗ ấy đi, và the6u luôn những hoa phượng lác đác trên áo, để cho đẹp luôn thể? Như thế, chiếc áo cưới màu hồng nầy tuy ta không mặc, nhưng vẫn là chiếc áo cười nở đầy hoa phượng!’’ Thấy ý nghĩ hay hay Phượng lấy chỉ tơ đỏ bắt đầu thêu hoa phượng...

Cả buổi chiều, cho đến mười hai giờ khuya, cô thêu lần hồi những cánh hoa phượng che lấp hết những chỗ gián nhấm, và lác đác trên màu áo hồng những màu hoa phượng dễ thương lạ!

Thêu xong hết, cô cắm bàn ủi điện, ủi lại áo, treo vào mắc áo và đứng ngắm thấy đẹp vô cùng!

Sáng hôm sau, cô đem áo đưa bà Cai:

- Đây, Mẹ. Con đã thêu hoa phượng trên chiếc áo cưới màu hồng bạc phận. Con không mặc được nữa thì mẹ cứ cho chị Tư Lò Gạch. Chứ chôn mãi nó dưới đáy rương, tội nghiệp nó!

Ông Giáo xuống Sài gòn được hơn hai tháng thì ở Đà lạt Phượng đã đến kỳ sanh nở. Ông Giáo nhận được điện tín của vợ cho hay vừa sanh được con trai, ông mừng rỡ vội vàng xin phép nghỉ một tuần lễ về Đàlạt. Trước đứa con đầu lòng ngộ nghĩnh mới ra chào đời, nỗi hân hoan đầm ấm của đôi vợ chồng không sao tả xiết. Ông giáo hãnh diện được làm cha, cũng như Phượng vui mừng sung sướng từ nay đã lên địa vị một bà mẹ. Đêm ngày, đôi uyên ương lăng xăng ríu rít trong tổ ấm ngào ngạt huơng hoa, chung quanh đứa con quí báu mà thần Ái tình đã ban thưởng cho họ.

- Xe anh đang chạy số hai lên đèo Chuối, vừa quẹo cua sắp sửa qua cầu. Anh bóp còi. Bỗng dưng một chiếc xe nhà binh tám bánh lù lù từ bên kia cầu vụt qua thật mau, đang quẹo cua mà không ôm tay phải, sắp đâm vào xe anh. Anh hoảng hốt, nhưng điềm tỉnh lại liền, bẻ tay bánh leo lên lề đường, cách miệng hố chỉ còn chừng ba phân tây. Tài xế xe nhà binh là một chú lính da đen, cũng giựt mình nhưng bẻ sang bên trái không kịp nữa. Chú vội thắng xe, chỉ cách một ly nữa là ủi vào xe anh. Còn một ly nữa là cả xe lẫn anh phải lăn nhào xuống hố. Chú lính da đen hoảng hồn lật đật mở cửa xe nhảy xuống, xin lỗi anh. Nhưng anh bình tĩnh, mỉm cười:

- Không sao, chú đừng lo. Vợ tôi và đứa con trai của tôi đang chờ tôi về ăn Tết ở Đà lạt, vậy không có lý do nào tôi lại nhảy xuống đốt pháo ở dưới hố sâu nầy hôm nay!

Mặt chú lính đầy vẽ sợ sệt, chú xin lỗi anh một lần nữa. Anh xuống xe để xem địa thế như thế nào. Chú lính cũng luống cuống, chạy tới chạy lui coi có cách nào cứu vãn xe anh bị kẹt giữa xe nhà binh và miệng hố. Anh bảo:

- Chỉ có một cách. Anh coi chừng giùm cho tôi lái xe lùi ra sau.

- Mạo hiểm quá, ông ơi!

- Nếu không, anh phải lùi xe anh, thì đít xe chắc chắn là sẽ tống vào cột cầu. Không biết chừng chính anh sẽ nhảy dù xuống vực thẳm đa!

Chú lính da đen xoay tròn cặp mắt trắng như hai hột vịt, ngó hai bánh xe của anh nằm sát trên bờ hố. Rồi chú ngó xe chú, chính chú cũng không hiểu chú đã lái cách nào mà để chiếc xe kết xù, to bằng hai thớt voi ở sở Thú, lại nằm chắn xiên đường cái, đầu xe gần ủi vào xe anh, đít xe sắp chỉa vào cột cầu xi măng. Chú lắc đầu, hổ thẹn. Anh leo lên xe rồ máy, và quây lại bảo chú lính đứng sau đít xe:

- Chú ngó chừng nhé, nhưng đừng làm tôi hoảng hốt đấy!

- Ông lùi nhẹ nhẹ... Nhẹ nhẹ... chút xíu nữa.... Qua bên trái một tí... một tí thôi... Nhẹ nhẹ... được rồi... Qua bên phải một tí... coi chừng... một tí thôi... Được rồi. Tuyệt! ông cừ lắm!

Xe anh tụt khá xa xuống dưới dốc, để dư chỗ cho xe chú lính quẹo tay bánh tiến tới, và bẻ qua bên phải. Xong, anh lại sang số hai, vượt lên đèo. Đi ngang chú lính da đen, chú ngồi trong xe thò đầu ra, nhe hai hàm răng trắng phếu để cười và chào anh:

- Chúc ông gặp may và xin gởi chào vợ ông và con trai ông!

Anh cười chào lại.

Phượng hồi hộp nghe. Ông Giáo vừa dứt lời, cô thở ra một hơi nhẹ nhàng, để tay trên ngực nhìn lên trần nhà:

- Cảm ơn Trời Phật đã độ mạng cho chồng tôi!

Nhưng Phượng lại âu yếm trách chồng:

- Thế mà hôm Tết mình về đến nhà không nói cho em biết... Để đến hôm nay...

- Anh không muốn nói vội, vì anh sợ mấy ngày Tết vui vẻ mình lại bị ám ảnh tai nạn xe hơi, giựt mình ngủ không ngon giấc. Anh không muốn đầu năm mình nằm chiêm bao thấy anh té xuống hố!

- Sáng sớm mai, mình lại đi Sàigòn, em lo quá.

- Chẳng lẽ anh lại chạm trán với chú lính da đen ấy nữa sao?

- Nhưng em không yên tâm. Thôi, em muốn lần nầy về Sàigòn mình đăng báo tìm một người tài xế. Sàigòn xe cộ càng ngày càng nhiều, thường ngày em đọc báo thấy có lai nạn xe hơi hoài, em cứ lo sợ. Vả lại mình cũng thường về Đà lạt thăm em và thăm con, đường xá nguy hiểm lỡ gặp sự rủi ro, em biết làm sao? Mình chìu em một chút đi. Trên nầy em coi báo, khi nào được thấy lời rao tìm tài xế của mình, em mới vững lòng.

Ông giáo cúi xuống hôn Phượng:

- Vâng. Về Sàigòn anh sẽ đăng báo ngay. Còn ngày mai, mình cứ chúc anh bốn chữ: ‘‘ thượng lộ binh an’’ là anh sẽ bình an vô sự!