← Quay lại trang sách

Chương VI

VỪA xuống đến Sàigòn buổi trưa, chiều ông Giáo lái xe đến liền một tòa báo, thuê đăng lời rao vặt:

‘‘Cần một anh tài xế, biết giỏi máy móc, và có giấy chứng chỉ tốt.

Hỏi số nhà... đường Testard buổi trưa hoặc tối.’’

Ngay hôm đầu có báo đăng lời rao, đã có ba anh tài xế đến xin việc. Nhưng anh thứ nhứt có giấy chứng chỉ không được tốt lắm. Anh thứ nhì nói năn vô phép, có vẻ phách lối. Anh thứ ba mới thi được giấy phép lái xe hôm trước Tết, máy móc không biết gì. Kế tiếp đến mười anh nữa, nhưng ông Giáo không bằng lòng một anh nào cả.

Trưa hôm sau, một chàng thanh niên đến gõ cửa. Ông Giáo mở cửa, hỏi:

- Anh là tài xế?

- Dạ, thưa ông, tôi có thấy trong nhựt trình đăng ở đây có cần một tài xế...

- Phải. Anh có giấy phép lái xe, và giấy chứng chỉ của chủ cũ?

- Dạ, thưa ông, tôi có.

Chàng thanh niên lấy bóp rút ra hai thứ giấy cần thiết, hait ay kính cẩn đưa ông Giáo. Ông Giáo xem xong, gật đầu. Ông ngó chàng, nhận thấy một nét mặt hiền lành thật thà, và cử chỉ đàng hoàng lễ phép. Nhưng ông xem lại giấy tờ, hỏi:

- Anh ở Đà nẵng à? Và anh đã giúp việc chp nhà binh Pháp ở ngoải?

- Dạ. Thưa ông, tôi là người quê ở trong nầy, nhưng vì một trường hợp đặc biệt tôi đã học lái xe ở Đà nẵng, và vì vậy giấy phép lái xe của tôi được cấp tại sở Trường Tiên Đà nẵng.

- Anh có thẻ căn cước không?

- Dạ, thưa ông có. Thẻ căn cước của tôi cấp tại Biên hòa.

- Anh bao nhiêu tuổi?

- Dạ, thưa ông, năm nay tôi hai mươi bốn tuổi.

- Anh cho tôi xem căn cước.

- Dạ.

Chàng thanh niên lại mở bóp lấy ra giấy căn cước, cầm hai tay cúi đưa ông Giáo. Ông vừa xem vừa hỏi:

- Tên anh là Trần văn Tình?

- Dạ.

- Trước kia anh làm thợ mộc trong đồn điền Cao su, ở Trảng Bom?

- Dạ.

Ông Giáo thấy Trần văn Tình mới có hai mươi bốn tuổi, nét mặt hiền lành dễ thương, nhưng trong căn cước cấp tại Biên hòa đầu năm 1945 làm thợ mộc ở đồn điền Cao su, mà giấy phép lái xe thì do sở Trường Tiền Đà nẵng cấp năm 1948, và giấy chứng chỉ hạnh kiểm tốt và tài xế giỏi lại do Nhà binh Pháp ở Đà nẵng cho ngày 27 tháng 5. Ông Giáo hỏi:

- Tháng 12 năm ngoái anh còn làm cho nhà binh Pháp ở Đà nẵng, sao bây giờ anh lại ở Sàigòn?

- Dạ thưa ông, tôi thôi việc nhà binh Pháp, rồi sau có tàu chiến nhà binh vô Sàigòn, tôi xin đi theo.

- Anh về đến Sàigòn đã lâu chưa?

- Dạ, tôi về đếnSàigòn đúng ngày 25 tháng chạp ta năm ngoái.

- Từ đó đến nay, anh giúp việc cho ai?

- Dạ, thưa ông, hiện giờ tôi còn thất nghiệp.

- Sao đang làm tài xế cho nhà binh Pháp ở Đà nẵng, anh lại xin thôi, về Sàigòn chịu thất nghiệp?

Tình do dự trả lời:

- Dạ..., Vì... tôi nhớ Saigòn quá, không thích ở Đà nẵng nữa.

- Tôi hơi ngạc nhiên tại sao nhà binh Pháp lại dùng một thường dân như anh không phải là binh sĩ, làm tài xế? Anh có đi lính cho Pháp không?

- Dạ... không.

Tình luống cuống không biết trả lời cách nào cho suông sè. Ông giáo thì nghi Tình là một binh sĩ, đào ngũ ở Đà nẵng trốn về Sài gòn. Nhưng Tình đánh bạo nói:

- Thưa ông, chuyện của tôi làm cho nhà binh Pháp ở Đà nẵng, nếu tôi kể cho ông nghe rõ thì hơi dài, sợ mất thì giờ của ông…

- Không sao. Trước khi nhờ anh giúp việc cho tôi, tôi cần hiểu trước kia anh làm cho ai, và tại sao anh thôi. Anh kể tóm tắt cũng được. Không cần thuật rõ. Anh vào nhà.

Ông Giáo quây lưng vào phòng khách, Tình rón rén bước theo sau. Ông ngồi xuống ghế, chỉ một chiếc ghế khác bảo Tình ngồi. Ông mỉm cười ngó Tình:

- Tôi thích những cuộc phiêu lưu của tuổi trẻ. Anh kể sơ cho tôi nghe làm sao từ anh thợ mộc ở Biên Hòa anh trở thành tài xế cho nhà binh Pháp ở Đà nẵng? Rồi lại bỏ nhà binh Pháp ở Đà nẵng về Sài gòn?

- Dạ, thưa ông, chẳng qua là vì thời buổi loạn ly mà ra cả. Tháng ba năm 1946 một buổi tối tôi đứng chơi với người anh em, nghe âm nhạc cải cách trước một rạp hát ở Biên hòa, bỗng dưng ba tiếng Iựu đạn nổ ngay trong tiệm cà phê bên cạnb. Bốn người lính Tây chết, ba hay bốn người lính Ma rốc bị thương nặng. Không biết là ai ném nhưng lập tức lính Pháp và thân binh ùa tới bao vây các nẽo đường chung quanh rạp hát, bố ráp dân chúng. Tôi bi6 bắt cùng với trên hai trăm người. Dẫn về đồn lính Pháp, sáng ngày sau xét giấy tờ, một trăm năm mươi người được tha về. Tôi bị giam lại với trên năm mươi người khác, toàn là thanh niên cả. Tôi không hiểu vì sao tôi không được tha. Tôi khóc lóc với ông quan ba rằng tôi vô tội, tôi không có ném lựu đạn, nhưng ông quan ba không nghe, giữ tôi lại làm ‘‘tù binh’’ với trên năm mươi an hem kia. Ba ngày sau họ chia chúng tôi làm hai kíp. Một kíp hai muơi ba người bị giải qua đồn lính Ma rốc, có lẽ là những anh bị tình nghi nặng hơn. Còn ba mươi người với tôi ở lại đồn lính Pháp để đào hầm và làm các việc lặt vặt trong đồn, không được ai đi ra ngoài. Cũng không được người nhà tới thăm viếng. Không được giao thiệp với một người Việt nào ở trong đồn cả. Ba tháng sau, một đêm tối, hai xe cam nhông nhà binh che kín mít, đến chở hết chúng tôi ra Vũng tàu. Có năm người lính nai nịt súng liên thanh và lựu đạn đi hộ tống ngồi hai bên kèm chúng tôi, Ra Vũng tàu, họ đưa chúng tôi xuống một chiếc tàu chiến Pháp rồi bốn giờ sáng tàu nhỗ neo ra biển. Xuống tàu, họ nhốt chúng tôi dưới hầm, có lính canh. Chúng tôi không biết họ đưa đi đâu, ai nấy đều hồi hộp lo sợ. Vài ba hôm sau. Tàu đậu trước một hải cảng mà chúng tôi không biết là nơi nào. Lính áp dẫn chúng tôi xuống bến. Tại đây có hai chiếc cam nhông nhà binh đợi sẵn, chở chúng tới đến một đồn lính Pháp trên một khoảnh đất to rộng, chung quanh rào giây kẽm gai. Bốn góc có bốn chòi canh bằng xi măng cốt sắt. Trong lúc xe chạy qua các đường phố, chúng tôi ngó ra ngoài thấy vài ba tấm bảng chỉ địa điểm, mới biết đây là thành phố Đà nẵng.

Ở đồn binh Đà nẵng, vài tháng đầu chúng- tôi còn bị giam, nhưng lần lần về sau họ để cho được đôi chút tự do. Riêng phần tôi nhờ hồi trước có học thi bằng tiểu học, biết chút ít tiếng Pháp, nên tôi được ông quan ba chỉ huy đồn tin dùng làm việc vặt trong nhà ông. Lúc đầu ông sai tôi làm cỏ trong các bồn bông trước sân. Sau ông bắt tôi quét dọn gara và lau xe. Tôi bắt đầu làm quen với anh lính Pháp tài xế của ông, tên là Jean. Anh nầy lại là một thợ máy chuyên môn sửa chữa xe hơi. Ông quan ba cho phép anh dùng tôi làm cu li để anh sai khiến. Nhờ nói được chút ít tiếng Pháp, và có lẽ cũng nhờ tính nết của tôi thật thà vui vẻ tôi được anh Jean tin cậy và thương mến. Thấy tình thế trong đồn khó mà thoát ly trốn được ra ngoài và sự đối đãi của binh lính với ‘‘tù binh’’ cũng không khắc khổ lắm, riêng tôi được sự tin cậy của ông quan ba và anh Jean, tôi quyết chí lợi dụng thời gian bị giam hãm ở đây để học nghề thợ máy xe hơi. Nhờ sự chăm chỉ tập sự, lần lần tôi hiểu hết các bộ phận trong máy và bắt đầu tập lái xe ngay chung quanh sân đồn, sau hàng giây kẽm gai. Chỉ trong mười ngày tôi đã tự lái xe được, lần đầu là xe jeep, traction, rồi đến xe hạng nặng. Ông quan ba thương tôi và khen tôi sáng trí học hiểu mau biết. Trong thời gian hai năm tôi tự mình lái được xe nhà và cả xe cam nhông nhà binh, như một người tài xế giỏi thiệt thọ. Nhờ sự giới thiệu của anh binh sĩ Jean, tài xế của ông quan ba, tôi được dự thi lấy bằng lái xe, và được sở Trường tiền Đà nẵng cấp bằng, hồi tháng sáu năm 1948.

Tôi cũng quen thạo các máy móc và anh lính Jean cho tôi tự sửa chữa các xe bị hỏng máy dưới sự coi ngó và chỉ bảo của anh. Nhiều chiếc xe bị panh đem về xưởng, anh lính Jean bận việc, giao tôi tự sửa lấy, và tôi hãnh diện vui sướng đã thành công nhờ sự kiên nhẫn của tôi. Sau bốn năm chung đụng hằng ngày trong đồn binh, ông quan ba xét thấy là tôi đã bị bắt oan. Với cảm tình cá nhơn của ông đối với tôi, ông khuyên tôi sung vào quân đội Liên hiệp Pháp để làm tài xế cho ông và ông hứa sẽ tiến cử tôi mau lên cấp bực. Nhưng tôi nói thật với ông rằng tôi nhớ nhà quá, vì bốn năm tôi xa cách mẹ cha không tin tức. Sẵn dịp lễ Nô en, tôi khóc lóc xin ông trả tự do cho tôi, để tôi được về Biên hòa thăm cha mẹ. Vốn người nhơn từ rộng lượng, và hiểu lòng thành thật của tôi, ông quan ba thả tôi ra. Hơn nữa, chính ông vui lòng cấp cho tôi giấy chứng chỉ tốt, coi tôi như người giúp việc thật sự của ông vậy, chớ không phải ‘‘tù binh’’. Sẵn có chiếc tàu từ Đà nẵng về Sài gòn, ông quan ba giới thiệu tôi được quá giang về đây. Tôi vui sướng thấy rằng trong đoàn chúng tôi cả thảy ba mươi anh em, có hăm lăm anh cũng được trả tự do và cùng về với tôi một chuyến tàu. Còn năm anh ở lại Đà nẵng sanh sống, trong đó một anh làm thợ hớt tóc, hai anh làm thợ máy và hai anh làm thư ký cho một nhà hàng.

Ông giáo cười vui vẻ:

- Thế mới biết ở đời chuyện rủi có khi là chuyện may. Anh bị bắt đi ở tù, đó là chuyện rủi. Vì ở tù mà anh học được nghề tài xế và thợ máy xe hơi, đó lại là chuyện may!

- Dạ thưa ông, nhưng chuyện may cũng lại là chuyện rủi! Vì, khi tôi được trả tự do, về quê nhà thì được thấy làng tôi ở một khu rừng hẻo lánh đã bị đốt phá từ năm 1946 và cha mẹ tôi đã thất lạc đâu rồi

- Ủa! Thế thì anh chưa gặp được gia đình của anh sao?

- Dạ thưa ông, chưa. Tôi có về tìm một bà Dì ở Biên hòa để hỏi tin tức nhưng bà đã chết. Người con trai một của bả đã đi hai năm nay, sau khi bán nhà cho người khác.

Ông giáo rất thương hoàn cảnh của anh Tình, tài iế thất nghiệp. Ông lại hỏi:

- Anh làm sao tìm Ba má anh?

- Thưa ông, tôi định tìm những người bà con quen biết cũ, để dò hỏi. Tôi đoán là Ba má tôi nếu không bị tai nạn trong lúc xóm nhà của tội bị đốt rụi, thì cũng dọn về ở Biên Hòa hay Sàigòn. Nhưng tôi ở Đà nẵng về đây chưa gặp được ai. Cha tôi trước chiến tranh làm Đồn điề, cao su ở Trảng bom, tôi có lên đó hỏi thì Ba tôi không làm ở đấy nữa. Thưa ông, hiện giờ tôi thất nghiệp, trong túi không còn đồng xu nào, nên dù có muốn đi tìm kiếm gia đình tôi cũng khó quá. May sáng nay đọc nhựt trÌnh thấy ông cần tài xế nên tôi hỏi đến làm hầu ông. Tôi định có công ăn việc làm cho yên, rồi tôi mới dò hỏi tin tức để tìm Ba má tôi và vợ tôi.

- Vợ anh cũng thất lạc à?

- Dạ, thưa ông, vợ tôi chưa cưới. Còn hai tháng làm lễ thành hôn thì tôi bị bắt, thành ra đôi bên cách biệt, không ai được tin tức của ai trong bốn năm nay.

- Vì sao vợ anh thất lạc?

- Dạ, vợ tôi cũng ở một xóm với tôi, nhà cửa cũng bị đốt rồi không biết cô ấy lưu lạc nơi nào.

Ông Giáo lắc đầu, chắc lưỡi, tỏ vẽ rất thương hại anh tài xế còn trẻ tuổi:

- Tội nghiệp anh quá! Hiện giờ anh ở đâu?

- Dạ, thưa ông, tôi ở tạm nhà một người thợ hồ ờ Bàn cờ, quen với tôi hồi còn làm chung trong sở cao su.

Ông Giáo, tính nhân từ phúc hậu, hay thương người đau khổ, giúp kẻ bần hàn, nay nghe anh tài xế Tình kể rõ nỗi đoạn trường như thế, ông rất cảm động, và thương mến vô cùng, ông đứng dậy trả giấy tờ cho tài xế và bảo:

- Được. Chiều nay anh dọn đến đây. Lương của anh mỗi tháng hai ngàn đồng, cơm ăn, nhà ở. Ngày hai buổi, anh lái xe cho tôi đến trường và đưa tôi về nhà. Ngoài ra, anh được rảnh rang, tự do làm gì thì làm. Xe tôi còn mới, máy móc tốt, khỏi sửa chữa gì, chỉ mỗi tuần anh chịu khó lau dầu lại một lần là được. Trước kia tôi cũng có chiếc Citroën. Vì tôi thích traction, hơn các kiểu mới bây giờ.

Ông giáo thấy áo quần anh tài xế rách vá và đôi giầy lính tây cũ cũng vá, liền rút bóp trong túi áo lấy ra hai ngàn đồng đưa anh:

- Đây không phải là tiền lương của anh. Tiền lương, cứ cuối tháng tôi mới trả, số tiền này, la tôi biếu riêng anh để anh mua sắm vài bộ áo quần mới giày mới, và để anh có tiền túi xài vặt đến cuối tháng. Số tiền nầy là tôi biếu hẳn anh, chớ không phải cho anh mượn trước rồi trừ vào tiền lương tháng của anh đâu.

Tình vô cùng cảm động. Vì tấm lòng tốt rất cao thượng của ông chủ mới. Anh do dự chưa dám nhận tiền. Nhưng ông Giáo nhã nhặn vui vẻ đặt hai ghim bạc mới tinh trong bàn tay anh tài xế:

- Anh cất tiền, đừng ngại. Chiều nay, năm giờ, anh đến ở đây. Anh ăn cơm với bà xẩm già và chị bếp. Anh ở căn phòng tài xế, cạnh ga ra. Chừng nào anh tìm được vợ anh, tôi sẽ cho phép anh đem chị ấy về ở chung với anh cho vui.

Tình cúi đầu vâng lời ông chủ, nhưng không biết nỗi cảm ơn cách nào cho xứng đáng vì anh thấy ông chủ tử tế quá và nhơn từ phước đức ít ai bằng. Anh chỉ lẩm bẩm được mấy lời:

- Thưa ông chủ, ông chủ có lòng thương và bao bọc giùm kẻ thất nghiệp như tôi, thật tôi không biết nói gì để tỏ lòng biết ơn của tôi... Tôi xin hứa sẽ tận tâm làm hầu ông chủ, để xứng đáng lòng thương rộng lượng của ông chủ.

Ông Giáo cười thân mật vỗ vai anh tài xế tiễn anh ra cửa, và bắt tay anh.

Tình bước lui vài bước, còn quây lại chấp tay lên ngực, cúi đầu chào.

5 giờ chiều ông Giáo lái xe từ trường học về nhà thì đã thấy anh tài xế đứng chờ trước cửa ga ra. Tình lễ phép chào. Ông Giáo xuống xe vui vẻ bắt tay anh:

- Đồ đạc của anh đâu?

- Dạ thưa ông, tôi không có đồ đạc.

- Không có va-li, rương?

- Dạ không.

- Anh phải mua một cái để đựng đồ... Anh đã thấy phòng riêng của anh chưa?

- Dạ chưa

Ông Giáo dẫn Tình đi qua trước cửa ga ra, vòng bên hông, có hai gian phòng. Một gian là kho để đồ vặt, và một gian trống. Ông lấy chìa khóa mở gian này:

- Đây, phòng tài xế, là phòng của anh. Có sẵn giường, tủ, bản, ghế, đèn điện. Phòng nầy vừa hai người ở. Tôi giao chìa khóa anh giữ. Muốn xuống bếp, anh đi thẳng sân nhỏ nầy vòng ra sân sau. Anh đi về tự do.

Ông Giáo trở ra ga ra, Tình theo sau. Ông bảo:

- Đây, chìa khóa nhà xe, tôi cũng giao cho anh. Tôi đã có riêng một chìa khác. Bây giờ anh cho xe vào, rồi về phòng nghỉ.

-Dạ

Tình mở cửa xe vào ngồi, cầm tay bánh, mở xăng, nhẹ nhàng rồ máy, lái xe từ từ cho vô ga ra,

Ông Giáo đứng ngoài xem, bằng lòng và tin cậy. Rồi ông vô nhà.

Tám giờ tối, ông ngồi bàn giấy viết thư cho vợ.

Saigon, 7-7-1957.

Phượng yêu dấu của anh,

Chắc mình đã thấy lời rao cần tài xế, đăng trong báo hai kỳ rồi ngưng. Anh đã dùng một ank tài xế còn trẻ tuổi, có giấy chứng chỉ tốt của nhà binh, người hiền lành, thật thà, và lễ phép. Anh ấy đã dọn đến ở và bắt đầu nhận việc từ chiều nay. Anh rất sung sướng nghĩ rằng được tin này chắc mình yên lòng.

Anh nhớ mình và nhớ con lắm. Anh hãnh diện mỗi khi nhìn bức họa tuyệt đẹp mà nét bút huyền dịu của một bà mẹ tài hoa, đã phác họa hình dung của đứa con trai yêu quý. Bao nhiêu âu yếm đắm say trong các màu sắc linh động kia! Anh tưởng tượng như mình vẽ hình ảnh của con bằng hơi thở thơm tho của mình, mình tô điểm nụ cười của con bằng hương phấn huyền mơ trong nụ cười của mình.

Anh đã tự tay anh lồng kiến và đặt bức họa trong một khung vàng, treo nơi bàn giấy ngay trước mắt anh, như ý mình muốn. Những đêm ngày, giờ phút, của anh ở trong gian nhà nầy, và ở giữa Sàigon quạnh hiu vắng vẻ nầy, đều tràn ngập những hương thơm và màu sắc rạo rực, đê mê, của nét bút mình, của hơi thở mình, của nụ cười mình của Tình yêu thiêng liêng ôm ấp cả bầu trời.

Đêm nào, ngày nào, mơ tưởng của anh cũng bay về Đà lạt. Chỉ lúc sáng dậy, anh mở mắt nhìn chung quanh mới sực nhớ rằng anh đang sống ở Sài gòn.

Sàigon là một bãi sa mạc minh mông, vô tận, vô biên. Anh là một lữ khách đi lang thang tháng ngày trong vắng lặng. Nhưng xa xa, xa xa, nơi đồi thông xanh thẳm mịt mờ, Mình và con là ánh mộng chập chờn trước nhãn tuyến của anh. Mình và con, là nguồn suối đào tiên, mát mẻ, dịu dàng, để tâm hồn anh về đây cảm thông cùng mây gió.

Về đây? Biết bao giờ anh lại được trở về nữa, bên cạnh mình và con? Còn một tháng thì đến lễ Hai Bà Trưng, trường anh được nghỉ hai ngày. Nhưng một tháng, còn lâu quá! Một tháng là ba mươi ngày và ba mươi đêm xa cách mình và con! Anh hồi hộp đợi chờ từ nay cho đến ngày mồng sáu tháng hai, lễ hai bà Trưng. Lần nầy anh về, chắc mình vững dạ, vì đã có anh tài xế. Mình sẽ khỏi lo anh rơi

xuống đèo Chuối! Dù sao, anh cũng tin rằng Thần Hộ mạng của anh chính là mình và con, cho nên riêng anh không bao giờ lo ngại những rủi ro dọc đường.

Mỹ Phượng yêu quý, anh vừa để bút xuống bàn nhắm mắt tưởng tượng anh ôm chặt mình vào lòng, anh đặt trên môi mình một nụ hôn say mê, đắm đuối, rất lâu... rất lâu... vô cùng tận... Và anh gởi con một nụ hôn âu yếm của Ba.

TRẦN-TẤT-BẢO.

Tám giờ sáng hôm sau, Tình lái xe đưa ông Giáo đi dạy học. Đến cổng trường, ông mở cặp da, lấy phong thư chưa dán con niêm, và hai đồng bạc đưa Tình:

- Anh ra nhà giây thép mua tem dán thư, bỏ thư vào thùng, rồi mười giờ đem xe trở về dây, tôi đi dạy trường khác.

- Dạ.

Tình lái xe đi. Đến sở bưu điện anh vào mua tem. Trong lúc dán tem lên góc phong bì, anh thấy tên người nhận thư và địa chỉ:

Bà TRẦN-TẤT-BẢO

Biệt thự MỸ PHƯỢNG

Đường Prenn

ĐALAT

Anh tủm tỉm cười, nghĩ thầm:

- Mỹ Phượng? Cái tên Biệt thự cũng giống tên vợ mình quá nhỉ!

Anh không có một chút nghi ngờ rằng Mỹ Phượng chính là vợ ông Giáo. Anh vui vẻ, tự nhiên, lái xe ra chợ Bến thành, tìm chỗ may vài bộ quần áo mới và mua một đôi giày với số tiền hai ngàn đồng mà ông Giáo tử tế đã cho anh.

Ông Giáo thật bằng lòng anh tài xế trẻ tuổi của ông,rất hiền lành, thật thà, lễ phép, anh không hề có những cử chỉ cộc cằn hoặc ngôn ngữ thô lỗ. Anh rất tận tâm, cần mẫn trong việc săn sóc chiếc xe của chủ. Anh lái xe thận, không chạy ẩu, không qua mặt láo xược, lúc nào cũng tôn trọng luật lệ đi đường. Với anh, ông Giáo không lo sợ tai nạn.

Được một điều tốt nữa khiến ông Giáo rất mến anh, là anh không hay sà đà nhậu nhẹt, không uống rượu, không chơi bời lêu lỗng, không cờ bạc. Ông Giáo mến chuộng những người thanh niên có tư cách như vậy.

Anh vào làm cho ông chiều ngày 17 tháng Hai dương lịch, đến cuối tháng hai mới được mười hai ngày, nhưng ông trả đủ lương tháng cho anh hai ngàn đồng. Với số tiền ông đã cho riêng anh để giúp đỡ anh trong khi thất nghiệp, anh chỉ sắm ba áo sơ mi trắng, và ba quần vải xanh lao động, mặc vừa đủ sạch sẽ, đứng đắn, xứng đáng là anh tài xế của ông Giáo sư. Giày, thì anh mua hai đôi giày cũ đóng lại tạm coi được thôi. Ngoài ra, anh không tiêu xài hoang phí. Anh để dành tiền là mong một ngày tìm lại được cha mẹ và cô vợ sắp cưới, Mỹ Phượng. Với tiền tiết kiệm, anh hy vọng sẽ cưới Phượng đàng hoàng và sắm thêm cho Phượng vài ba áo hàng. Anh tin rằng không sớm thì muộn anh cũng sẽ tìm lại được Phượng. Anh chắc chắn Phượng chưa lấy chồng khác và cũng đang đau đớn chờ đợi anh. Nhiều đêm trằn trọc, anh nằm chèo queo trên chiếc giường cô độc trong phòng tài xế ở nhà ông Giáo, anh tự nhủ thầm: ‘‘Chiếc áo cưới màu hồng của mình tặng Phượng, chắc Phượng chưa mặc lần nào chắc Phượng chờ ngày cưới sẽ mặc cho mình coi.’’ Nhớ Phượng, Tình buồn rầu không xiết. Anh than thở’: ‘‘Nếu mình nghe lời Phượng bữa đó mình đừng đi Biên hòa, thì đâu có xẩy ra chuyện biệt ly đằng đẵng bốn năm! Nhưng thôi, chuyệu cũ đã qua, nhớ lại chi cho thêm não lòng! Mình chỉ thương Phượng, chắc bốn năm qua Phượng âm thầm đau đớn lắm! Tội nghiệp Phượng quá! Không biết ngày giờ nầy Phượng ở nơi nào? Phượng đang làm gì? Phượng đâu có biết mình đã về Sài gòn, và đang tìm kiếm Phượng?... Phượng ơi! Anh đang kiếm em khắp hang cùng ngõ hẽm mà chẳng gặp em! Làm sao anh biết em ở đâu để anh chạy tới, anh ôm em và khóc với em?

Phượng ơi! Em thương nhớ anh, đau khổ vì anh, bỏ ăn bỏ ngủ, chắc ngày nay em gầy ốm lắm phải không em? Phượng ơi! Phượng ơi! Em ở đâu? Em còn sống, hay em đã chết? Em vui hay em buồn? Em ơi I Em!’’ Nghĩ đến đó, Tình ngồi nhỏm dậy trên giường, ôm mặt khóc âm thầm trong đêm vắng. Tình muốn kêu lên một tiếng thật to: ‘‘Phượng ơi!’’ nhưng đêm khuya phẳng lặng, anh chỉ nấc lên một hơi, rồi gục đầu xuống thổn thức, nước mắt chảy đầm đìa trên gối chiếc. Hình ảnh của Phượng hiện ra trước mắt anh trong đêm tối, buồn bã âu sầu. Mệt lả, anh nằm co ro xuống chiếu, thiêm thiếp ngủ, nhưng hình ảnh Phượng vẫn chập chờn trong chiêm bao, Tình vẫn ôm ấp trong tương tư giấc mộng của chiếc áo cưới màu hồng … phất phơ trong nắng sớm…