← Quay lại trang sách

Chương VII

SÁNG hôm thứ Bảy trước ngày lễ Hai Bà Trưng, khác mọi ngày thường, ông Giáo cho gọi anh tài xế lúc bảy giờ. Tình vừa mới tỉnh dậy vội vàng thay đồ rồi chạy lên nhà. Cửa phòng khách đã mở. Anh vào đứng đợi. Anh nghe từ trong phòng giấy kế cận, tiếng ông Giáo gọi vọng ra

- Anh tài đó phải không?

- Dạ.

- Anh vô đây.

Lần đầu tiên, Tình được ông chủ kêu vô văn phòng của ông. Ông đang ngồi bàn giấy, soạn nhiều đồ lặt vặt bỏ vào cặp da.

Ông quây lại bảo anh:

- Hôm nay chúng ta đi Đà lạt. Anh sắp đặt tám giờ đi. Bây giờ anh lái xe ra chợ mua bánh mì lạp xưởng và bốn chai limonade, để dùng dọc đường. Nếu anh có quen biết ai ở Đà lạt, muốn mua chút ít quà lên biếu, thì mua luôn. Đây, tôi đưa anh một trăm đồng. À, anh nhớ mua cho tôi một kí chả lụa thiệt ngon. Nhà tôi thích chả lụa lắm.

- Dạ.

Tình cầm tấm giấy một trăm, chào ông, đi ra. Nhưng anh vừa bị một ngạc nhiên đau đớn mà anh chưa trấn tĩnh được. Lúc anh mới bước vào văn phòng của ông chủ và đứng sau lưng ông, thì bỗng dưng anh trông thấy trên tường, ngay trước mặt anh, một bức họa hình dung đứa con mới sanh, dưới có một giòng chữ:

Tặng chồng yêu quý của em

và ký tên: MỸ PHƯỢNG

.

Tự nhiên, anh choáng váng, xẩm mày xẩm mặt. Cũng may là ông Giáo không để ý đến điệu bộ bối rối đột ngột của anh, Lúc ra đi, anh đụng mạnh một cái ghế lớn giữa phòng khách, anh giựt mình, nhưng hình như ông Giáo cũng không hay biết gì. Không nghe ông hỏi. Tình vừa đi ra cửa, vừa hỏi thầm: ‘‘Vợ ông Giáo cũng tên là Mỹ Phượng sao?... Mỹ Phượng khác, hay là Mỹ Phượng của mình?’’ Nhưng Tình lắc đầu, tự nhủ: ‘‘ không có lý! Chắc bà giáo là cô Mỹ Phượng nào khác.’’

Tình tủm tỉm cười: ‘‘ Tại mình thương nhớ vợ mình quá nên vợ người ta mà mình tưởng lầm là vợ mình! Vô lý!’’ Tình đủng đỉnh ra mở cửa nhà xe, lái xe ra chợ.

Ngồi trong xe, anh lại suy nghĩ: ‘‘ Minh không quen biết ai ở Đà lạt... Biết mua quà cho ai bây giờ?... Ông Giáo tử tế thật. Ông lo giùm cho mình. Nhưng lâu năm mình không có dịp nào lên Đà lạt, nếu có quen biết ai, chưa chắc họ còn ở đó! À... chị Tư Lò Gạch! Phải rồi, chị Tư Lành ở đường Lò Gạch, hồi trước quen với gia đình mình mà cũng quen với gia đình Phượng... Lạy Trời, chị Tư Lành còn ở đường Lò Gạch! Nếu chị Tư còn ở chỗ cũ, mình hỏi tin tức ông già bà già mình, và tin tức gia đình Phượng, có lẽ chị biết! Có lẽ..., nhưng đâu có chắc được?’’.

Bỗng Tình thắng xe cái ‘‘kít’’. Anh vừa giựt mình thấy xe anh toan vượt qua một ngả tư không nhường cho chiếc xe khác từ bên tay phải phóng ngang qua, xuýt đâm vào xe anh. Anh tài xế xe kia trừng mắt chộ anh với một câu: ‘‘Mù à?’’ Anh làm thinh, không trả lời. Nhưng anh không dám nghĩ vẩn vơ nữa, chăm chú chạy ra chợ.

Lúc trở về đến nhà mới bảy giờ hai mươi.

Sửa soạn xong, tám giờ khởi hành. Tình lái. Ông Giáo ngồi cạnh Tình, còn ghế sau để đồ đạc. Ông Giáo nói:

- Lễ Hai Bà Trưng, tôi chỉ được nghỉ một ngày thứ Bảy, nhờ có ngày Chúa nhựt nên được hai ngày. Tôi phải xin nghỉ thêm ngày thứ Hai nữa, là ba ngày. Vậy, chúng ta chỉ ở Đà lạt chiều nay, và ngày chú nhật, rồi sáng thứ Hai phải về Sàigon.

-Dạ.

Tình ‘‘dạ’’ như cái máy, vì trí óc anh không sao hết lẩn vẩn những ý nghĩ hoang mang về tên ký ‘‘Mỹ Phượng’’ trên bức họa đứa nhỏ mới sanh, ở nhà ông chủ. Lên khỏi Thủ đức, Tình hãy còn nghiền ngẫm mấy câu tự hỏi và mấy câu tự trả lời trong đầu óc: ‘‘có lẽ nào Mỹ Phượng của mình lại lấy ông Giáo? Hai người trước kia đâu có quen nhau. Ông Giáo ở Sài gòn, Đà lat, hai nơi phồn hoa đô hội hiếm gì các cô tiểu thơ, còn Phượng ở Tân phú, một xóm nhà lụp xụp ở khu rừng hẻo lánh, làm sao hai người gặp nhau được? Huống chi ông Giáo là một người làm lớn, địa vị giàu sang, ông đâu có thèm lấy một cô gái nghèo nàn quê mùa như Phượng?... Vô lý! Mình nghi ngờ bậy bạ, oan cho Phượng của mình! Đâu có phải riêng gì vợ mình mới có tên là Mỹ Phượng? Biết đâu ở Sài gòn, Đà lạt, còn có nhiều cô Mỹ Phượng khác nữa? … Nhưng …Mỹ Phượng… Mỹ Phượng sao lại có sự trùng tên kỳ cục vậy kìa?

Thấy Tình trầm ngâm, ông Giáo hỏi:

- Anh suy nghĩ gì mà coi bộ băn khoăn dữ vậy?

Tình giựt mình, đáp:

- Dạ, không ạ.

Ông giáo hỏi đùa:

- Nhớ vợ?...

- Dạ, không ạ

- Anh đã dọ hỏi tin tức Ba má và vợ anh chưa?

- Dạ, tôi đã dọ hỏi nhiều nơi nhưng chưa tìm được.

- Sao anh không đăng báo?

- Thưa ông, đăng báo cách nào ạ?

- Như tôi đã đăng kiếm tài xế hồi tháng trước đó. Anh đang thất nghiệp đâu có biết là tôi cần dùng một người tài xế, cũng như tôi đâu có biết anh là ai, nhưng nhờ anh coi mấy lời của tôi rao, trên mặt báo anh mới biết tìm đến tôi. Bây giờ anh muốn kiếm vợ anh không biết thất lạc nơi nào, thì anh nhờ nhà bào đăng mấy câu, có ngày vợ anh đọc báo, biết chỗ anh ở sẽ kiếm đến anh.

Tình nghe ông Giáo nói có lý. Chuyện đăng báo. từ trước đến giờ anh đâu có hiểu. Anh hỏi thêm cho rõ để khi về Sàigòn, anh sẽ nghe lời ông chủ:

- Dạ thưa ông, như tôi muốn gặp vợ tôi, thì tôi đăng cách sao để gặp được?

- Đại khái anh rao lên mặt báo như thế nầy:

Vi chiến tranh, vợ tôi thất lạc 4 năm nay, bà con cô bác ai biết tin tức xin mách dùm. Đa tạ.

TRẦN-VĂN-TÌNH

ở nhà ông Giáo TRẦN-TẤT-BẢO

Biệt thự MỸ PHƯỢNG

Đường Prenn - ĐÀ LẠT

hoặc đường Testard - SÀI GÒN.

May ra có một ngày vợ anh đọc báo thấy lời rao như thế liền tìm đến biệt thự Mỹ Phượng ở Đà lạt để gặp anh, hoặc đường Testard, Saigon.

- Dạ, lần nầy về Sài gòn, chắc tôi phải đăng báo, may ra tìm được tin tức vợ tôi chăng?

- Anh cứ đăng như thế, không tốn tiền bao nhiêu đâu.

- Dạ

Tình mừng được ông giáo chỉ vẽ cho việc đăng báo, nhưng Tình cũng buồn bực mỗi lần nghe đến tên ‘‘Mỹ Phượng’’. Tình lại trầm ngâm, suy nghĩ: ‘‘Lạ thiệt! Vợ mình tên Mỹ Phượng. Vợ ông Giáo cũng tên Mỹ Phượng! Chỉ trùng tên không thôi, cũng đã lạ rồi, nếu mà trùng vợ nữa thì mình có nước tự tử mất! Chuyện nầy kỳ cục quá, nghĩ mãi không ra!’’.

Tình bối rối bỗng lạc tay bánh xuýt đâm xe vào một chiếc xe chở gỗ. Ông Giáo nói đùa:

- Anh làm tôi hết hồn!

- Dạ, tại chiếc xe bò đi kỳ quá.

Qua khỏi Trảng bom, Tình lại hoang mang nghĩ ngợi. Anh ăn năn tự trách anh: ‘‘Mình cứ nghĩ vớ vẩn hoài! Mỹ Phượng của mình mà lấy ông giáo là chuyện vô lý không thể tưởng tượng được. Tại sao mình nghi ngờ bậy bạ? Ừ mà mình quên một điều quan trọng, là Phượng của mình đâu có phải là Họa sĩ! Phượng làm gì vẽ được bức họa xinh đẹp treo nhà ông chủ? Hồi Phượng đi học ở Đà lạt là một cô nữ sinh tiểu học, cũng đã có khiếu vẽ rồi nhưng sau về rừng, sống bên góc núi, có bao giờ Phượng thích tập vẽ đâu! Mình có bao giờ thấy Phượng họa những bức tranh như họa sĩ đâu! Thôi! Thôi! Đừng có nghĩ lẩn quẩn nữa! Lên Đà lạt rồi sẽ biết!...’’

Tình nóng lòng cho xe chạy vùn vụt trên đường núi. Sẵn đường vắng xe, Tình thả ga, phóng một trăm hai chục cây số một giờ. Xe chạy bon bon như nuốt trững con đường dài thăm thẳm. Ông Giáo tủm tỉm cười:

- Anh muốn đốt giai đoạn, hở anh tài?

Nghe ông Giáo rầy một cách nhã nhặn, Tình tốp bớt, cho xe chạy còn độ một trăm cây số giờ.

Nhưng từ Tân phú, nơi làng cũ của Tình và Phượng nay đã cháy rụi, chỉ còn lại mấy đống tro tàn, Tình bỗng đạp ga phóng lên thật nhanh Đôi mắt lờ mờ như chim trong đám sương mù, Tình cho xe chạy vùn vụt như gió bão. Tình có cảm giác lạ lùng cố đuổi theo cho kịp hình ảnh của Phượng cứ chờn vờn trước mắt anh, cứ chạy lùi mãi trước tấm kiến xe hơi, nhưng anh đuổi theo hoài mà không bắt được. Có phải bóng Phượng đang chạy trong đám sương mù ở phía trước kia không?...Tình quá tưởng tượng vì Tình quá đau khổ, nhưng sự thật là chính Tình đang khóc. Đôi mắt Tình ràng rụa nước mắt … Chiếc xe lảo đảo trên con đường đèo dốc quanh co…Bỗng xuống một khúc quanh, Tình vội thắng xe: một tiếng ‘‘kít!’’. Ông Giáo đang ngồi ngủ lim dim, giựt mình tĩnh dậy, ngó ra đường:

- Sao đó, anh tài?

Ông kinh ngạc thấy xe vừa ngưng kịp bên đầu cầu, mũi xe sắp ủi vào cột cầu, và sắp chúi xuống một bờ suối lỏm chỏm những tảng đá.

Ông lặng lẽ ngó anh tài xế. Ông càng ngạc nhiên thấy đôi mắt anh đầm đìa những lệ, Tình không nóỉ được nửa lời, hai tay ôm tay bánh, gục đầu xuống khóc nức nở.

Ông giáo không hiểu lý do vì sao xe đang chạy ‘‘ngon trớn’’, không có gì trở ngại mà tự nhiên xuýt va phải đầu cầu? Anh tài thắng kịp để xe khỏi rớt xuống suối, thật là một sự may mắn vô cùng, ông cũng không hiểu anh tài có tâm sự buồn khổ thế nào mà khóc sướt mướt trong lúc đang lái xe chạy trên con đường khúc khỷu giữa núi rừng? Nhưng ông là người rất lịch sự, ông không muốn rầy la anh tài xế đã đau khổ của ông. Ông cũng không tỏ vẻ giận dỗi hay bất bình. Ông chỉ nói:

- Trí óc anh hôm nay không được yên tỉnh. Hay là đi đường núi không quen, anh bị chóng mặt. Thôi, anh nên ngồi nghĩ. Để tôi lái.

Tình lau nước mắt. Ăn năn vì đã làm phiền ông chủ và cảm kích lòng tử tế của ông, anh lễ phép nói:

- Dạ ông để tôi lái.

- Tôi quen đường Đà lạt rồi, anh cứ trao tay bánh cho tôi. Vả lại anh đã chạy trên một trăm mấy chục cây số.

Ông giáo đổi chỗ cho tài xế. Ông lùi xe ra giữa đường, rồi sang số qua cầu.

Đợi một lát anh tài bình tĩnh trở lại, Ông hỏi chuyện để anh khuây khỏa:

- Tại sao lúc nãy anh khóc, anh tài?

Tình thành thật đáp:

- Dạ, tôi nhớ ba má tôi và vợ tôi.

Ông giáo khen anh:

- Người con có hiếu và người chồng trung thành như anh, ít có lắm đấy.

Một lát, ông lại hỏi:

- Anh năm nay mấy tuổi?

- Thưa ông, tôi hai mươi bốn tuổi.

Qua một khúc quanh, ông lại nói:

- Hai mươi bốn tuổi, một thanh niên như anh đáng lẽ phải có cuộc đời vui vẻ trẻ trung, chớ sao lại tâm sầu thê thảm? Tôi cũng hai mươi bốn tuổi mới có vợ lần thứ nhứt. Nhưng được một năm, vợ tôi chết. Anh thử tưởng tượng một người thanh niên như tôi, mới hai mươi lăm tuổi đã phải chịu tang vợ, một người vợ trẻ đẹp đã đem lại hanh phúc cho tôi! Nhưng tôi chỉ đau khổ một thời gian, rồi tôi phấn đấu... Tôi tự phấn đấu với tôi, đã chịu biết bao nhiêu kiên nhẫn và bao nhiêu hy sinh. Ngày nay tôi sung sướng, bở vì tôi đã thắng. Anh cũng nên theo gương tôi, anh tài à! Anh nên có can đảm

Thấy anh đang ở trong tình thế đau khổ đáng thương, tôi rất cảm động. Một người con thất lạc cha mẹ, một người chồng bị ly biệt với cô vợ mến yêu, đó là một hoàn cảnh rất não nùng thê thảm. Tôi hiểu tâm sự anh bây giờ xót xa vô kể. Nhưng anh phải cố gắng tự phấn đấu với số kiếp của anh, để thực hiện ý nguyện của đời anh. Anh phải kiên nhẫn, không cần than khóc làm chi, kiên nhẫn tìm ba má anh và vợ anh. Kiên nhẫn xây dựng lại tổ ấm của gia đình

- Dạ. Thưa ông, ông có lòng thương khuyên bảo tôi, tôi xin vâng lời. Tôi cố gắng tìm lại ba má tôi và vợ tôi, thì đời tôi mới có hạnh phúc được.

- Thế nào anh cũng tìm lại được gia đình của anh, anh đừng buồn. Tôi thấy nhiều người, vợ chồng, cha con, cũng vì hoàn cảnh bất ngờ phải cách biệt nhau mười năm, hai mươi năm, nhưng họ còn tìm lại được, nữa là anh mới xa gia đình trong bốn năm! Trái đất nhỏ lắm, anh à. Người ta có xa nhau đến đâu đi nữa, rốt cuộc rồi cũng gần nhau hết! Anh với tôi trước đây hai tháng đâu có biết nhau? Thế mà ngày giờ nầy ai có ngờ đâu anh và tôi ngồi chung trong một xe! Anh thấy không?

Ông giáo cười, anh tài xế cũng cười. Tình thầm phục ông Giáo có nhiều tư tưởng cao rộng, và câu chuyện vui vẻ lý thú của ông đã an ủi anh một đôi phần. Đến Blao, anh hỏi ông Giáo có mệt để anh lái. Ông Giáo cười:

- Anh khỏi sợ tôi mệt! Đường Sài gòn – Đà lạt tôi đi đã mòn hết một chie-1c xe! Chỉ một mình tôi lái. Lần nầy là lần đầu tiên tôi mới có một người tài xế ngồi bên cạnh tôi. Sự thay đổi ấy chính là do nhà tôi.

Tình chăm chú nghe, nhưng thấy ông Giáo làm thinh, anh hỏi:

- Thưa ông, tại sao ạ?

- Tại nhà tôi, và cũng là tại tôi. Nói đúng hơn, là tại mộ chú lính da đen!

Tình mỗi lúc mỗi ngạc nhiên. Ông Giáo thuật rõ tai nạn xe hơi xuýt chết lần trước tại Đèo Chuối do chú lính da đen lái xe nhà binh chạy ẩu. Rồi ông kết luận.

- Tại có tai nạn hụt ấy, nhà tôi mới bảo tôi đăng báo kiếm người tài xế. Nhà tôi biết tôi đã có tài xế, thì nhà tôi mới yên tâm. Lần nầy tôi về Đà lạt, nhà tôi thấy có một người tài xế, hiền lành, thật thà như anh, chắc nhà tôi bằng lòng lắm.

Nghĩ một chút, ông Giáo nói tiếp:

- Nhà tôi tánh cũng dễ dãi như tôi. Nhưng tôi dặn anh điều nầy, anh nhớ nhé. Anh đừng nói lại cho nhà tôi biết chuyện anh đâm xe vào cột cầu lúc nãy. Nhà tôi mà nghe chuyện ấy thì chắc là lo sợ cho tánh mạng của tôi lắm đó. Anh nhớ, nghe anh tài?

- Dạ, tôi đâu dám nói chuyện ấy với bà.

- Ừ, đừng nói. Riêng tôi, tôi không hở môi cho nhà tôi biết đâu.

Từ đây ông Giáo hơi mỏi me65tn ít nói nữa. Anh tài xế cũng vậy.

Nhưng ông Giáo không có chuyện tâm tình gì thắc mắc, chỉ mong mau mau về đến Đà lạt thăm vợ con yêu quý, chớ anh tài xế của ông tuy ngồi yên tĩnh bên cạnh, nhưng lòng anh rạo rực đau buồn.

Anh nghĩ kỹ lại, có nhiều lý do để anh tin rằng Mỹ Phượng vợ của ông Giáo, không phải là Mỹ Phượng vợ của ông Giáo, không phải là Mỹ Phượng vị hôn thê của anh. Mặc dù vậy, anh vẫn có linh tính báo cho anh biết rằng có chuyện gì không hay, sẽ xẩy ra cho anh ở Đà lạt. Chuyện gì? Có lẽ anh sẽ gặp Phượng chăng? Vợ ông Giáo có thể là một cô Mỹ Phượng tiểu thơ nào đó, thật tình anh không dám nghi ngờ nữa, nhưng biết đâu chính Mỹ Phượng của anh cũng đã lấy một người chồng nào khác? Rất có thể như thế lắm. Rất có thể sau khi xóm làng Tân phú bị đốt cháy, Phượng tản cư lên Đà lạt, gặp một người đàn ông nào đó, hai bên làm quen với nhau rồi lấy nhau? Tình suy nghĩ nếu gặp trường hợp ấy anh sẽ cư xử với Phượng như thế nào? Anh sẽ đối phó với hoàn cảnh mới như thế nào?

Nghĩ như thế, Tình buồn rười rượi trong lòng. Tình chán nản, dự định sẽ có một cuộc thanh toán quyết liệt …

Chiếc xe traction15 CV của ông Giáo vùn vụt chạy qua Djirng, Liêm Khàng, Finnom, một giờ trưa bắt đầu vọt lên đèo Prenn. Ông Giáo vui mừng đã về gần đến Đà lạt. Chỉ còn qua cái đèo. Ông mở hết tốc lực cho chiếc xe đen bóng loáng của ông vượt lên đường núi quanh co, trời mây quang đãng, như đang bay về động Thiên thai…

Ánh nắng vàng dìu dịu hòa với rừng thông bát ngát xanh um những sắc màu rung động. Trái tim của núi rừng hồi hộp với trái tim của lữ khách ở xa về.

Tràn ngập nỗi niềm vui sướng, ông Giáo mỉm cười, nhìn trước mắt con đường êm ái chạy về biệt thự Mỹ Phượng, ông cao hứng nói một mình, như muốn reo ca lên:

- Mỹ Phượng! Mỹ Phượng! Chắc giờ phút nầy mình đang ôm con chờ anh trước cửa! …

Nghe đến hai tiếng ‘‘Mỹ Phượng’’ ; Tình bỗng thấy tối tăm mặt mày. Bầu trời như đen xẩm ; Anh nghe như gió thổi ào ạt, như một cơn phong ba bão táp vừa nổi dậy trong lòng anh…Quay lại thấy anh tài tự nhiên tái mét, ông Giáo hỏi:

- Anh chóng mặt, hả anh tài?

- Dạ…thưa ông…tôi chóng mặt…

- Anh đi Đà lạt vài lần sẽ quen.

Chiếc Traction từ từ quẹo vô cổng, đổ trước sân. Ông Giáo mở cửa xe bước ra, vừa vô đến hè thì Mỹ Phượng trong nhà cũng vui mừng vừa chạy ra. Hai vợ chồng ôm nhau hôn say mê ngay trước cửa. Một phút sau, ông quay ra chỉ người trẻ tuổi mặc quần vãi xanh, đứng cạnh xe:

- Mình à, đây là anh tài xế.

Mỹ Phượng trố mắt ngó Tình, bỗng dưng cô xẩm mày xẩm mặt té gục vào tay chồng.

Ông Giáo vội la lên:

- Mình sao vậy? Mình sao vậy?

Rồi ông gọi ra sân:

- Anh tài! vào đỡ với tôi đưa bà lên lầu! Mau lên!

Nhưng anh tài cũng vừa té xỉu xuống đất, nằm bất tĩnh bên cạnh bánh xe.

O-ng Giáo một mình xốc vợ lên hai cánh tay, bế vào đặt trên ghế đi văng ở phòng khách ở phòng khách.

Ông hoảng hốt bấm chuông điện gọi người nhà.