← Quay lại trang sách

Chương VIII

BẢY giờ tối, Phượng đã tĩnh. Nằm giường ngủ trên lầu, Phượng chớp mắt hỏi ông Giáo đang ngồi săn sóc bên cạnh cô:

- Con trai thức hay ngủ, hả mình?

- Con ngủ. Anh vừa cho con bú sữa chai.

Phượng ngồi nhỏm dậy, nghiêng mình ngó trong nôi, con trai nằm ngủ ngon giấc. Cô yên lòng nằm xuống lại Ông Giáo nắm tay cô, khẽ hỏi:

- Mình khỏe chưa?

- Em hơi khỏe rồi, mình à.

- Lúc trưa, mình bị đau sao?

- Em trúng gió mình à. Tại vì hai hôm nay em cảm, trong người còn yếu, lúc trưa em chạy ra cửa đón mình, bỗng dưng bị trúng gió, em xỉu…

- Lúc bác Đốc đến xem mạch cho mình, mình có biết không?

- Em đang mê man, nhưng em biết. Bác Đốc chích thuốc gì cho em đó hả mình?

- Một mũi Pressyl, bổ tim. Bác Đốc bảo Mình bị bịnh yếu tim chuyến trước nằm nhà thương Sàigon đã khỏi, lâu lâu khi nào trong người yếu, mình bị cảm mạo bịnh có thể trở lại. Nhưng không sao. Bác Đốc sẽ chích mỗi ngày, mình sẽ khỏe mạnh như thường. Chốc nữa mình ăn com với anh nhé? Anh có mua chả lụa ngon ở Sàigòn.

- Em sẽ ngồi với mình cho vui, nhưng chắc em ăn cơm chưa được. Vì trong người em còn mệt. mình bấm chuông gọi chị bếp giùm em.

Phượng dặn chị bếp nấu cho cô một tô cháo, đập hai quả trứng gà bỏ vào, và nêm một tí nước mắm hành tiêu.

Chị bếp, người Bắc, lễ phép hỏi:

- Vâng ạ. Thưa bà, chiều nay bà mệt, chốc nữa cháu bưng cháo lên đây để bà dùng, hay là cứ dọn nơi phòng ăn?

- Chị cứ dọn trên bàn ăn. Tôi sẽ ăn với nhà tôi một lượt.

- Thưa bà, vâng ạ.

Chị bếp quay hỏi ông Giáo:

- Dạ thưa ông, lúc nãy ông dặn cháu nấu thêm phần cơm cho anh tài. Cháu đã dọn cơm, nhưng anh ấy đi đâu chưa về ạ.

- Anh ấy đi hồi nào?

- Dạ thưa ông, anh vừa mới đi lúc năm giờ. Cháu có dặn anh bảy giờ về ăn cơm. Nhưng

anh đi vội vàng, chả bảo gì với cháu cả.

- Chị cứ để phần cơm chờ anh ấy nhé.

- Thưa ông, vâng ạ.

Chị bếp xuống. Ông Giáo quây nói chuyện với Phượng:

- Anh tài nầy lái xe khá lắm. Nhưng có lẽ ảnh chưa đi đường Đà lạt quen, nên ảnh bị chóng mặt. Lên đèo Prenn, anh ấy tự nhiên bị xẩm này xẩm mặt. Lúc trưa mình bị cảm gió, thì ảnh cũng té xỉu cạnh chiếc xe. Trong khi anh và chị bếp ẵm mình lên lầu. thì anh có nhờ vợ chồng anh Ba làm vườn đỡ anh tài vào căn buồng của ảnh, và nhờ vợ chồng anh ấy săn sóc giùm. Chị Ba làm vườn nói là anh tài bị trúng gió, nên vội vàng đốt chổi xề trong buồng ảnh, để ảnh mau hồi tỉnh lại. Anh Ba làm vườn thì lấy dầu nóng xoa lưng và ngực. Lúc hai giờ bác Đốc đến thăm bịnh cho mình xong, bác có xuống xem cho anh tài, và chích cho ảnh một ống thuốc khỏe. Bác nói cảm xoàng, nhưng dặn phải nằm nghỉ yên đêm nay. Sáng mai bác sẽ đến chích thêm cho một ống thuốc khỏe nữa. Thế mà chưa chi, vừa tĩnh dậy anh ấy đã đi chơi rồi!

Phượng làm thinh nghe, nhưng chăm chỉ từng câu nói của chồng, ông Giáo nói tiếp:

- Trong số hơn mười người tài xế đến xin việc, anh thấy hoàn cảnh anh nầy đáng thương nha-1t, nên anh dùng. Chớ thật ra lúc ảnh đưa giấy chứng chỉ cho anh xem, anh hơi nghi ngờ là một binh lính trong Quân đội Pháp ở Đà nẵng đào ngũ bỏ trốn vô Sài gòn. Hỏi kỹ, anh ta mới kể thật chuyện ảnh hồi trước làm thợ mộc ở đồn điền cao su, bị bố ráp ở Biên Hòa năm 1946, bị bắt làm ‘‘tù binh’’, bị giam trong một đồn binh Pháp ở Đà nẵng. Ở đó bốn năm được sống tự do trong trại lính, anh ta học lái xe và sửa máy xe hơi. Nô en năm ngoái anh ta được tha về Sài gòn với giấy phép lái xe của sở Lục lộ Đà nẵng và giấy chứng chỉ làm tài xế cho ông quan Ba Pháp ở Đà nẵng. Từ Sài gòn, anh về thăm quê nhà, thấy nhà cửa xóm làng bị chiến tranh tàn phá hết. Cha mẹ ảnh và vợ ảnh, - người vợ sắp cưới mà ảnh thương yêu lắm – bị thất lạc đâu mất! Ảnh tìm kiếm chưa được. Ảnh có than thở với anh rằng từ hôm về Sài gòn, anh ta dọ hỏi tin tức nhiều nơi, nhưng bà con quen thuộc ảnh không ai biết hiện giờ cô vợ ấy còn sống hay chết ở nơi nào, hoặc còn ở vậy chờ anh ta, hay đã lấy chồng rồi? Ngẫu nhiên ảnh đọc báo thấy lời rao cần tài xế, ảnh đến xin việc. Anh thấy ảnh hiền lành tội nghiệp, anh thương mến và giúp đỡ. Anh ta làm việc tận tâm và giỏi dắn, nhưng lâu lâu thấy bộ anh ta như người thất tình. Nguyên do chỉ vì anh ta thương nhớ cha mẹ và cô vợ sắp cưới mà ảnh đã từ giã hai tháng trước ngày hôn lễ! Lên Đà lạt lần nầy, anh ta có nói với anh rằng anh ta ước mong được gặp lại vị hôn thê…Lúc chie-2u anh chàng bị cảm gió vừa mới tỉnh dậy đã hối hả đi như thế, chắc là đi kiếm vợ!...

Ông Giáo cười rất tự nhiên, vô tình. Rồi ông đứng dậy đi uống một tách nước nóng. Ông không thấy trong lúc đó cô vợ cưng yêu, kiều diễm của ông vội quay mặt sang bên kia, cầm khăn lau mấy giọt lệ ứa trào xuống đôi má. Ông Giáo chưa cạn tách nước trà thì chị bếp từ dưới cầu thang bước lên:

- Mời ông bà đi xơi cơm ạ.

Chị đến cạnh giường bà chủ:

- Thưa bà, bà mệt, cháu xin đỡ bà xuống ạ.

- Cám ơn chị, Nhà tôi đỡ tôi đi được. Chị xuống trước đi.

Ông Giáo trở lại giường, trông thấy nét mặt ủ dột uể oải của vợ, liền âu yếm ngồi bên cạnh, nắm tay vợ:

- Chắc mình còn mệt? Mình không nên cố gượng đi xuống cầu thang. Để anh bảo chị bếp bưng cháo lên. Mình ngồi ăn cho khỏe, và trông con luôn thể.

- Dạ, mình muốn thế cũng được. Nhưng em thích ngồi với mình cho vui.

- Trưa mai mình khỏe hẳn, chúng ta sẽ ăn cơm chung với nhau.

- Dạ.

Ông Giáo hôn vợ, rồi đi xuống phòng ăn. Ông bảo chị bếp bưng cháo lên lầu. Ông ngồi bàn một mình.

Chị bếp bưng tô cháo còn nóng hổi, khói bay thơm phức, để trong một chiếc khay với một chén nước mắm, một cái bát, một đôi đũa mun, đặt trên bàn ngủ, lể phép mời bà Giáo:

- Xin mời bà xơi cho nóng ạ. Cháu có thêm vài cọng ngò trong cháo cho được thơm.

- Cám ơn chị, chị để đó cho tôi. Chị xuống nhà hầu cơm ông.

- Vâng ạ.

Chị bếp đi. Phượng nằm luôn trên giường, không muốn dậy. Một mình trong phòng, Phượng úp mặt vào gối thổn thức khóc. Hình ảnh của Tình, vị hôn phu của cô, với chiếc áo sơ mi vải, quần xanh, lại hiện ra trước mắt cô như một mối hậu trường bi ai thảm thiết. Cô cảm thấy cả một mối sầu tình đè nặng trên tâm tư đày đạo của cô. Tình đã về đây, lại làm tài xế cho chồng cô, có phải là một mỉa mai đau đớn, mà số kiếp tàn nhẩn đã gán buộc cho cô chăng? Cô sẽ chịu một hình phạt gì ghê gớm của lương tâm? Cô phải chờ đợi một bội bạc gì đắng cay của duyên nợ? Cô yêu chồng cô, một người chồng hoàn toàn, một người yêu tha thiết. Nhưng tình yêu ấy phải chăng một mối hận thiên thu? Cô thương nhớ Tình, quý mến Tình, nhưng ai hiểu cho nỗi niềm đau khổ, thầm kín trong thâm tâm cô? Bao nhiêu lệ nỉ non trong bao nhiêu đêm trường, mà nay giòng suối hận chưa khô, lòng thiếu phụ còn ngập tràn thảm lệ!

Bỗng đứa con trai nằm trong nôi quẩy cựa, cất tiếng khóc. Phượng vói lên đầu giường lấy khăn ướt lau mặt, ngồi đây ẵm con, cho con bú. Cô vẫn cho con bú đệm, kế tiếp một lần sữa mẹ, một lần sữa chai. Cô lấy khăn lau mặt lại một lần nữa, tự nhủ thầm: ‘‘Ta không nên để con ta nhìn thấy những giọt lệ trên mắt ta, mặc dầu con chưa hiểu gì. Ta muốn đôi mắt trong sạch ngây thơ của con ta chỉ trông thấy nơi ta những gì tinh khiết, thanh cao, những nụ cười êm dịu. Ta không muốn bao giờ đôi mắt âu yếm của chồng ta sẽ nhìn thấy trông con ngươi của ta phảng phất một áng mây sầu … Nhưng ta có nên giấu diếm chồng ta nỗi niềm tâm sự nầy chăng? Ta nên thành thật hoàn toàn để tin yêu hoàn toàn, hay nên che đậy mắt chàng một mối buồn u thảm của ta?...’’

Phượng vừa nghĩ đến đó thì nghe tiếng giày của ông Giáo bước lên thang lầu. Ông mỉm cười đến gần vợ, ngồi kề vợ, âu yếm đặt trên vai vợ:

- Sao mình chưa ăn cháo?...Anh sợ cháo nguội rồi, mình à.

- Lúc nãy cháo nóng quá, em chưa ăn được. Em định cho con bú xong em ăn cũng vừa,

Ông Giáo cúi xuống hôn trán con,- hôn gò má ửng hồng của con, và khẽ vuốt ve bàn tay mủm mỉm đang mân mê tà áo mẹ.

Tình đi đâu lúc năm giờ? Chính Tình cũng không biết là Tình đi đâu I Lúc xe đã về đậu trong sân. Tình trông thấy Phượng từ trong nhà chạy ra cửa mừng rỡ đón chồng, thì anh té che-1t giấc anh cũng không nhớ nữa. Ai đem anh vô gian buồng tài xế cạnh gara? Anh nằm mê man trên chiếc giường gỗ cho đến năm giờ anh tỉnh dậy, thấy căn nhà lạ, thấy một ống thuốc tiêm đã chích rồi còn bỏ trên bàn... Anh mới sực nhớ là anh vừa trống thấy Phượng, vị hôn thê của anh mà bây giờ là vợ của ông Giáo! Anh sực nhớ là anh đang ở trong nhà của Phượng, và đang làm tài xế cho chồng của Phượng... Ôi! Mỉa mai! Ôi! Đau đớn! Hay là Tình chiêm bao? Một ác mộng chăng? Một ám ảnh chăng? Không! Rõ ràng như bạch nhựt! Vợ của ông giáo chính là vợ của anh! Bà chủ Mỹ Phượng chính là vị hôn thê của Tình!

Tình uất ức, đứng phăng dậy, bỏ đi ra. Chị bếp hái ngò và hành gàn đó, trông thấy anh ra cổng, liền cất tiếng bảo:

- Anh tài, đi chơi nhớ bảy giờ về ăn cơm nhé!

Tình đi thẳng ra đường cái, không thèm quay lại. Không trả lời. Anh đi lang thang vô thành phố nhưng không nhứt định đi đến đâu? và đi làm gì? Đầu tóc bơ phờ, Tình cúi mặt bước đi, không dám nhìn lên sợ người ta trông thấy mắt anh đỏ ngầu, đầm đề hạt lệ. Đi một quảng gần, Tình trông thấy một hồ nước bạc long lanh dưới ánh nắng hoàng hôn. Anh đi thẳng ra đó, tìm một chỗ vắng và ngồi trên bãi cỏ. Ở đây, giữa trời mây non nước. Tình gục mặt xuống đầu gối khóc nức nở. Bỗng Tình có ý nghĩ đen tối, uất hận cho đời, tủi nhục cho duyên. Tình muốn nhảy tỏm xuống hồ để chôn vùi thân thể! Nước lạnh, màu nước xanh rì, gió thổi đìu hiu, mặt hồ lăn tăn gợn sóng. Đăm đăm nhìn xuống tấm gương ảo mộng. Tình chỉ thấy hình ảnh của Phượng trong sa mù... Chiếc áo cưới màu hồng phất phơ trong nắng dịu... và Phượug mừng rỡ đón chồng, ông Giáo và Phương ôm vào nhau hôn say mê trước cửa... Phượng với nét họa đứa bé sơ sinh ‘‘âu yếm tặng chồng em’’-. Tình thấy như bầu trời u ám lại, mặt hồ như xáo động bỗng dưng mở rộng nấp mồ, mời Tình nhảy xuống... Tình xầm mặt, trầm ngâm nghĩ ngợi: ‘‘Ta đến đây vẫn cô độc nơi cùng đường tận số. Ta chết giờ phút nầy chưa trọn nghĩa chung tình. Phượng bỏ ta, nhưng ta không bao giờ bỏ Phượng. Ta đã thề cùng sống với Phượng, sao giờ nầy ta không thề cùng chết với vị hôn thê của ta? Ta thấy bóng Phượng trong tay người khác mà ta chưa tìm lại được Phượng trong tay ta! Ta phải … Ta nhứt định phải..’’

.

Tình không dám nói ra mặc dầu là nói thầm, ý nghĩ kín đáo vừa nảy ra trong óc Tình. Anh vùng đứng dậy, ngó mặt hồ một lần nữa như muốn nhắn lại một lời: ‘‘Ta sẽ trở lại đây... với giọt nước mắt của ta và giọt máu của Phượng. Ta muốn nơi đây hoa Phuợng sẽ nở bốn mùa, ngàn thu nhuộm đỏ khối tình bất diệt của ta!’’

Tình quay gót đi ra đường cái lớn. Anh đã có ý định ra phố mua một con dao, để dứt khoát mối tình oan trái. Dọc theo bờ hồ, qua một chiếc cầu lên dốc chợ, anh âm thầm nhắc đi nhắc lại trong trí óc một ý nghĩ ; ‘‘ta kiếm mua một con dao nhọn thật bén.. Tối nay ta về nhà ông Giáo… Ta lựa một cơ hội nào chỉ ta với Phượng … Ta quyết …’’ Tình biết ý định nầy là tội ác lớn, anh biết đó là một hành động dã man, nhưng anh đang bị cơn uất hận nặng nề đè lên tư tưởng của anh. Anh như một oan hồn mù quáng đang lạc loài trong âm ty của tội lỗi. Anh cúi đầu đi thui thủi chung quanh chợ, không dám ngó ai, mà thật ra anh cũng không quen biết ai. Tất cả mọi người đều xa lạ. Đến trước một cửa tiệm Hoa Kiều, anh đứng nhìn vào tủ kiến bày biện đủ các thứ đồ dùng. Anh ngó một bàn ủi điện, một đèn dầu hôi, một chồng chén, tách, bình trà, một cối xay cà-phê, một con dao xắt thịt... Đôi mắt Tình bỗng sáng rực lên. Anh trố mắt nhìn kỹ con dao xắt thịt... Cán gỗ có đôi chút mỹ thuật, xinh xắn vừa vặn với tay anh. Lưỡi dao bén và nhọn, sáng quắc, dài độ một gan tay. Tình do dự một lúc, hơi ngạc nhiên là đã tìm được ngay một vật mà anh đang muốn có nội trong đêm nay. Anh đánh bạo bước vào, đến trước mặt một Hoa Kiều đứng bán hàng trong tiệm, tay anh run run chỉ con dao, giọng nói mất tự nhiên:

- Bán tôi cái kia!

Người Hoa Kiều hỏi:

- Cái kia là cái gì?

Anh đến tủ kiến chỉ vào đồ vật mà anh muốn mua:

- Đây này.

Người Hoa Kiều hỏi:

- Cái dao xắt thịt hả?

Anh gật đầu.

Hoa kiều mở tủ lấy con dao đưa anh.

Tình cầm con dao, làm bộ ngắm nghía, xem xét kỹ càng, quây qua quây lại hai bên, nhưng sự thật là anh cố giấu nỗi hồi hộp bối rối mà anh lo sợ lộ ra trên mặt. Rồi anh hỏi:

- Bao nhiêu?

- Hai mươi đồng.

Anh không trả giá. Suy nghĩ một lúc nữa, rồi anh quyết định mua, thò tay vào túi quần móc chiếc bóp của anh. Toàn giấy bạc mới tinh, còn nguyên vẹn ba ghim. Anh lấy một ghim, rút ra một tờ, làm thinh đưa cho chú Chệt.

Trong lúc chú nầy lấy tiền thối lại, Tình tự nhủ thầm: ‘‘ Đây là tiền ông Giáo, chồng của Phượng …’’

Anh bảo người Hoa kiều:

- Cho tôi miếng giấy gói lại.

Chú Chệt để tiền thối bảy mươi đồng trên quày trước mặt khách hàng, quay ra sau lấy một tờ nhựt trình cũ, xé làm hai, đưa anh một nửa. Anh tự gói con dao, rồi cầm dao đi ra. Khách gọi lại:

- Nầy, anh! Còn tiền thối!

Tình quay vô lấy tiền, có vẻ không thiết lắm.

Đèn điện đã bật sáng trưng hai bên các dãy phố. Ngó đồng hồ treo trong một tiệm may, Tình thấy vừa đúng bảy giờ. Anh đang đứng một mình, thẩn thờ trên vĩa đường Minh Mạng tay cầm con dao gói trong nhựt trình. Anh chưa định đi đâu. Về nhà ông Giáo? Anh cho là hơi sớm quá. Anh nghĩ thầm: ‘‘Giờ nầy họ đang ăn cơm’’. Đi vào tiệm ăn? Anh không đói bụng. Lần đầu tiên, anh mua một gói thuốc hút. Ngày thường anh không ưa hút thuốc, nhưng chiều nay anh thấy lọm giọng, cứ muốn chóng mặt, cứ nhổ nước miếng hoài. Nhất là từ lúc anh mua con dao xắt thịt, anh thấy rờn rợn nơi tóc gáy. Đà lạt mùa nầy ấm áp, đêm nay gió mát, cờ xí phất phơ, dân thành phố tấp nập vui chơi mừng ngày lễ Hai Bà Trưng. Nhưng Tình ơn ớn lạnh trong lòng. Trái tim anh đập mạnh. Anh thấy gần như nghẹt thở. Anh bước đi, chưa biết đi đâu. Bỗng anh dừng chơn trước một người đàn bà gánh một gánh hột vịt lộn và bắp nướng, với một lò than đỏ. Có một em bé chừng mười tuổi đi theo. Gặp anh, người đàn bà ngạc nhiên, ngó chàng chòng chọc, rồi cười:

- Cậu quên tôi rồi sao?

Tình bỡ ngỡ

- Tôi thấy chị quen quen, nhưng không nhớ là ai?

- Cậu có phải là cậu Tình không?

- Phải. Còn chị, xin lỗi chị có phải là …

- Đố cậu nhớ?

Tình ngó chị mội lát rồi cười:

- À thôi, tôi nhớ rồi. Chị Tư Lành!

- Đúng.

Tình vui mừng lộ ra mặt:

- Chu cha! Lâu quá, bây giờ mới được gặp chị! Chị ở đâu, chị Tư?

- Ở Lò gạch. Bà cai với cô Phượng cứ kêu tôi là chị Tư Lò Gạch, là tại vậy đó. Còn cậu ở đâu?

- Tôi ở Sàigòn.

- Bây giờ cậu làm gì?

Tình tủm tỉm cười:

- Tôi làm tài xế.

- Ủa, chớ cậu làm tài xế hồi nào?

- Bốn năm nay rồi, chị Tư à.

- Cậu làm tài xế cho ai?

Tình lại mỉm cười:

- Tôi đang thất nghiệp đây... À, chị Tư nè. sẵn gặp thị đây, tôi muốn đến thăm chị cho biết nhà và nói với chị một chút chuyện.

Chị tư cười:

- Chuyện chi, tôi biết rồi, nhưng được sẵn gặp cậu, mời cậu về nhà tôi chơi. Cậu đợi tôi gánh, gánh nầy lại chỗ gốc cột đèn để con nhỏ nó bán rồi tôi đưa cậu về nhà.

Chị gánh đến cột đèn, cách đó năm bước. Tình đi theo sau. Chị soạn thùng hột vịt lộn và thùng bắp để riêng ra, và bỏ thêm than vào lò rồi quạt mấy cái. Chị dặn em nhỏ:

-Con vừa bán vừa coi chúng nghe con! Má đưa cậu Tình về nhà rồi má biểu dì Sáu con tới bán.

- Dạ.

Em bé mười tuổi lanh lợi ngồi trên ghế thấp bán hàng. Chị Tư Lò gạch quay lại cậu Tình:

- Con Vẹn, con gái của tôi đó, cậu á! Bữa nào tôi hay dì Sáu nó bận viện việc thì một mình nó bán hết hai chục hột vịt lộn và ba chục trái bắp nướng

Giao lại thúng hàng cho con Vẹn, chị Tư Lành đưa cậu Tình về đường Lò Gạch. Hai người vừa đi vừa rủ rỉ chuyện trò.

- Mấy năm nay cậu làm gì ở đâu?

- Tôi bị bắt ở Biên Hòa, bị đưa đi giam ngoài Đà Nẵng, trong đồn binh Pháp. Ở đó, tôi học lái xe hơi. Tháng chạp vừa rồi rồi được tha. Về Tân phú thấy nhà cửa và làng xóm bị đốt rụi, tôi xuống Sài gòn, kiếm việc làm.

- Cậu được tin tức của ba má cậu không?

- Không. Tôi hỏi người quen không ai biết. Tôi đang đi tìm.

- Bà Chín chết rồi. Cậu đi độ ba tháng thì bà Chín ho nặng rồi qua đời.

Tình giựt mình, kêu hoảng:

- Trời ơi, mẹ tôi chết rồi sao?

- Sau đó, tôi không nhớ là bao lâu, dân làng Tân phú bị bố ráp vì một trận phục kích ở gần đó. Cả xóm bị đốt hết. Ông Chín bị bắt, sau chết trong tù.

- Cha tôi cũng chết?

Tình, nước mắt ràn rụa, muốn khóc rú lên. Nhưng đường phố đông người, ai nấy đều vui vẻ kéo nhau đi xem cộ đèn chớp bóng không tiền ở Chợ, Tình cố nén lòng đau khổ và nỗi uất hận cực điểm của anh. Chị Tư khuyên giải:

- Tôi cho việc đời gì gì chẳng qua là số phận cả, cậu Tình à. Cậu đừng buồn nữa. Ông Chín bà Chín cùng già rồi. Và giả tỉ như hồi đó cậu còn ở nhà thì cậu cũng bị bắt, chớ tránh sao khỏi! Nếu cậu bị bắt chuyến sau nầy, không biết chừng ngày nay cậu cũng không còn sống nữa! Cho nên tôi nghĩ như vụ cậu bị bắt ở Biên hòa là một chuyện rủi mà hóa ra một chuyện may!

- Sao chị gọi là một chuyện may?

- May, là ngày nay cậu còn sống để kế tự ông Chín bà Chín... À, mà tôi hỏi thiệt cậu, cậu ở Sài gòn lên Đà lạt có chuyện gì?

- Đi... chơi!

- Cậu nói cậu thất nghiệp, mà cậu đi chơi?

- Sẵn tiện tôi đi kiếm việc làm

- Cậu lên đây bao giờ?

- Tôi mới lên chiều nay, chị Tư à.

- Cậu ở nhà ai?

- Tôi... chưa ở nhà ai hết. Ở Đà lạt tôi đâu có quen ai? Trừ chị ra, mà tôi cũng không chắc chị còn ở Đà lạt nữa!

- Không ở Đà lạt thì ở đâu?

Nhà chị Tư Lành, ở trong một ngõ hẽm đường Lò Gạch. Một gian nhà lá thấp lè tè,cũ kỹ. Chị Tư gõ cửa:

- Chị về đây, Sáu. Mở cửa cho chị.

- Dạ.

Một thiếu nữ đẹp, chạc hai mươi hai tuổi, mở cửa hỏi:

- Sao chị về? Chị để một mình cháu Vẹn bán sao?

- Ừ. chị gặp cậu Tình ở Sài gòn lên, nên mời cậu về chơi cho biết nhà.

Chị quay lai Tình đứng sau lưng chị:

- Đây là con Sáu Hiền, em ruột của toi6, cậu còn nhớ chứ? Mời cậu vô nhà.

Tình cúi đầu chào. Cô Hiền rất bình thản, tự nhiên, chào lại. Chị Tư bảo:

- Em pha nước uống, rồi lên bán hàng, kẻo tối nay đông người ta, một mình con Vẹn sợ bán không kịp.

- Dạ.

Cô Sáu Hiền bước vào nhà trong. Cô mặc áo bà ba trắng, tóc bỏ xỏa xuống lưng. Nét mặt xinh xắn đều đặn, nhưng có vẻ dày dạn phong sương, đôi mắt Iong lanh, điệu bộ rất nghiêm trang, đứng đắn. Cô vào nhà một lúc, xách ra một bình nước trà đặt vào khay gỗ với hai cái tách để trên bàn. Cô pha nước mời chị và mời khách, xong nói với chị Tư:

- Em lên chợ, nghe chị.

- Ừ, em đi.

Quay lại Tình, cô Sáu Hiền chào:

- Anh ngồi chơi.

- Chào cô.

Chị Tư mời Tình một chén trà, rồi nói:

- Con Sáu cũng ở đây với tôi, Io làm ăn buôn bán gần một năm nay. Còn tôi từ khi anh Tư nó thọ bịnh chết trong nhà thương, tôi ở vậy nuôi thằng Năm và con Sáu đi học, và nuôi đứa con tôi, là con Vẹn. Lúc hai anh em nó rủ nhau vô Bưng Biền, tôi ở nhà một mình vẫn lo buôn bán. Hồi cậu còn ở nhà. cậu còn nhớ thỉnh thoảng tôi đi Biên hòa có ghé vô thăm ông Chín bà Chín và vợ chồng ông Cai. Sau khi cậu bị bắt ở Biên Hòa tôi cũng còn ghé thăm hai gia đình, cho đến khi vợ chồng ông Cai và cô Phượng dọn về... Đà Iạt;

Chị Tư Lành làm thinh một lúc lâu, lấy que đan và cuộn len đan áo. Chị rất ngạc nhiên thấy Tình không hỏi han một câu nào về cô Phượng, Chị hỏi:

- Cậu có biết tin tức cô Phượng chưa?

Tình lặng lẽ một lúc lâu mới trả lời:

- Tôi nói thiệt với chi Tư, chi Tư à. Bây giờ tôi muốn quên hết chuyện cũ.

Chị Tư tủm tỉm cười:

- Cái đó cũng hay. Chuyện gì đã qua là đã qua... Nhưng chắc cậu đã biết rõ việc cô Phượng đã có chồng rồi chứ?

Tình cười gằng:

- Có gì lạ đâu, chị Tư!

Tình ngó chiếc đồng hồ reo trên bàn, thấy đã 9 giờ. Sợ lỡ công việc dự định, anh đứng dậy:

- Thôi, xin lỗi chi Tư, tôi có chuyện phải đi gấp. Không biết chừng mai tôi lại đến thăm chị, và nói chuyện nhiều.

- Cậu ngồi chơi đã chớ, có việc gì gấp lắm sao?

- Có chút chuyện riêng, chị Tư à.

Chị Tư thấy thái độ của Tình có vẽ kỳ dị, mỉm cười hỏi:

- Chuyện gì mà giờ nầy đi gấp vậy?

Tình ngượng nghịu:

- Chị tha lỗi...

Tình bước ra cửa, tay anh không rời con dao xắt thịt gói kín trong nhựt trình.

Đi đường về Biệt thự của ông Giáo, Tình suy nghĩ lung về công việc anh sắp làm. Lúc nãy gặp chị Tư Lò Gạch, anh muốn hỏi chị về việc Phượng lấy chồng từ bao giờ và trong trường họp nào. Xem chừng chị Tư biết rõ. Nhưng lạ quá, chị Tư vừa nói đến tên Phượng, là Tình không muốn nghe nữa. Tình thấy uất hận nổi lên, và chỉ chực chạy về nhà ông Giáo để giết Phượng ngay. Tình sắp đặt kế hoạch, nếu thi hành thủ đoạn tội ác nầy đêm nay không thành, thì ngày mai, ngày mốt. Anh hẹn cho anh một kỳ hạn là ba ngày.

Về đến cỗng Biệt thự Mỹ Phượng. Anh muốn rút dao ra đâm ngay hai chữ ‘‘Mỹ Phượng’’ nhưng ngó kỹ lại thì hai chữ mà anh thù ghét lại khắc trên một tấm đá cẩm thạch và thếp vàng, đóng dình hẳn trên trụ ngõ. Tình xô ngõ đi vào. Nhà không có chó. Anh đi nhè nhẹ trong sân, ngó vào phòng khách thấy có hai người khách đang ngồi chuyện trò vui vẻ với ông giáo, ngó lên lầu thấy có đèn điện sáng trưng. Mỹ Phượng chắc ở trên lầu. Tình muốn đi quanh nhà để dò biết rõ địa điểm; vì lúc chiều anh chưa kịp xem xét. Anh bắt đầu đi ngang qua ga ra, quẹo lại gian buồng tài xế, cửa buồng vẫn mở như hồi anh ra đi. Anh tạt vào: gói quần áo của anh bọc trong túi kaki nhà binh của anh lính Jean cho anh ở Đà nẵng, vẫn cò y nguyên trên bàn. Ống thuốc chích vứt bỏ vẫn còn nằm trên nền gạch hoa đã bể ra nhiều mảnh. Anh đóng kín cửa, mở gói nhựt trình, lấy con dao ra. Anh thử giấu con dao trong lưng quần, nhưng khó khăn lắm. Anh chỉ mặc một chiếc sơ mi vải không làm sao giấu được lưỡi dao mà không lòi ra cái cán. Anh chợt nhớ lại có đem theo chiếc áo len cũ dài tay. Anh vội mở túi ka ki nhà binh lấy ra cái áo. Anh choàng vào đầu, kéo xuống kín hai cánh tay và phủ dưới áo len. Anh ngó kỹ không thấy cộn, rồi đi ra. Anh vòng ra nhà bếp. Chị Bếp vừa trông thấy anh liền bảo:

- Anh tài đi đâu bây giờ mới về? Đã ăn cơm chưa?

- Tôi ăn rồi, cám ơn chị,

- Ông chủ có bảo để phần cơm cho anh.

- Ông chủ có bảo gì tôi nữa không?

- Ông bảo là chắc anh đi xem rước cộ đèn.

- Đúng.

- Cộ đèn đẹp không, anh tài?

- Đẹp lắm.

Tình vờ vĩnh nói cuuyện, nhưng mắt cứ ngó nơi cái cửa duy nhất, chắc là nối liền nhà bếp với nhà trên. Anh đến cửa xem xét cho rõ. Anh thấy cửa thông thương với một hành lan rộng, qua hai căn phòng. Anh hỏi chị Bếp:

- Hành lan nầy đi đâu vậy chị bếp?

- Đi ra phòng khách.

- Hành lan có hai cửa vào phòng nào nữa đây?

- Một cửa gần bếp, vào phòng ăn, Một cửa vào văn phòng của ông chủ hồi trước, bây giờ là buồng riêng của ông Cụ bà Cụ.

- Ông chủ còn ông Cụ bà Cụ sao?

- Ba Má của bà chủ đấy chứ. Ba má của ông đã qua đời lâu rồi.

Tình tự nhủ: ‘‘Vợ chồng ông Cai cũng ở chung trong nhà nầy à?’’ Tình vờ hỏi chị Bếp:

- Ông Cụ bà Cụ chắc đã già lắm hả? Sao tôi không thấy?

- Ông Cụ bà Cụ đi Ban mê thuột thăm người bà con từ hôm nọ.

- Chừng nào các Cụ về?

- Ông cụ còn nấu hổ cốt đem về Đà lạt bán. Nghe nói các Cụ đi một tháng mới về.

Tình không thấy cầu thang lên lầu, muốn đi thẳng vô hành lan để xem xét cho tường tận. Anh nghĩ rằng anh là tài xế ở trong nhà, anh tò mò cũng là việc thường. Nhưng trước khi bước vô hành lan, anh vờ hỏi chị Bếp:

- Ông chủ có khách hả chị?

- Vâng, sẳn có anh đây, nhờ anh làm ơn xách ấm nước sôi lên châm thêm trà giùm tôi. Tôi phải khuấy chai sữa cho bà gấp đây nầy. Chú ấy đang khóc the thé trên lầu, anh nghe không?

Tình muốn chụp ngay cơ hội liền bảo:

- Chị đưa chai sữa tôi đem lên lầu giùm cho thì được. Chứ tôi đâu phải là bồi hầu hạ quan khách!

- Anh lên lầu đâu có được, bà chủ mắng chết!

- Sao vậy?

- Bà chủ thích ở yên trên lầu, không thích có ai lên xuống. Từ hôm tôi mới vào làm đến nay, đã 8 tháng, chỉ một mình tôi được bà chủ gọi lên thôi. Bà chủ rất hiền lành, giản dị. Bà phúc đức lắm, đối đãi với người ăn kẻ ở rất là tử tế. Bà bình dân, không có kiểu cách như ai, nhưng rất nghiêm.

- Tôi là tài xế của ông chủ bà chủ, chứ ai xa lạ sao mà không được lên lầu?

- Tài xế thì tài xế chứ.

- Thì chị vừa đem ấm nước ra phòng khách vừa cầm chai sữa lên lầu cũng được vậy.

- Trái lối đi. Ra phòng khách rồi trở vào phòng ăn mới lên lầu được

- Thế à?

- Chứ sao!

Chị bếp không nhờ anh tài nữa. Chị cầm chai sữa lên lầu. Tình bước theo xem chị đi ngả nào. Chị bếp ra hành lan vào cửa phòng ăn, tại đấy có cầu thang. Tình do dự, không dám theo chân chị. Một phút sau chị xuống, bảo:

- Có bà Đốc ngồi chơi với bà chủ. Lại phải châm trà lên trên lầu.

Tình làm thinh, bỏ đi về buồng tài xế.

Anh thấy kế hoạch sát nhơn của anh không thể thi hành được đêm nay. Anh tắt đèn nằm ngủ

chờ ngày mai.