Chương VIII (tt)
SÁU giờ sáng hôm sau Tình dậy, tưởng một mình anh dậy sớm nhất. Không ngờ. anh vừa mở cửa ra ngoài, đã thấy ông Giáo mặc đồ pyjama ngồi bắt sâu cho mấy khóm hoa trước sân, và nưng niu mấy nụ hoa mới nở. Trông thấy anh, ông Giáo tươi cười:
- Anh cũng dậy sớm vậy, anh tài?
- Dạ chào ông.
- Anh ngủ ngon không?
- Dạ, cám ơn ông.
- Sáng nay anh đã khỏe chưa?
- Dạ chưa.
Tình ngượng nghịu, nói tiếp:
- Tôi xin phép ông cho tôi nghỉ vài ba ngày,
- Được, anh cứ nghỉ vài ba ngày cho thật khoẻ. Nhà tôi cũng mệt, bị bịnh đau tim trở lại. Tôi muốn để xe ở lại nhà, lúc nào nhà tôi cần thì anh lái xe đi mời Bác Sĩ.
- Ông về Sàigòn bằng gì?
- Sáng mai tôi đi máy bay.
Tình mừng thầm vì được cơ hội tốt. Ông Giáo chỉ còn ở nhà ngày nay. Ngày mai, Tình sẽ nói chuyện với Phượng. Ngày nay Tình viện cớ là còn đau, xin phép ông giáo cho đi lên phố tìm bà con. Nói như thế để đi vắng, khỏi bị ai nghi ngờ.
Tình vào buồng, dấu kín con dao xắt thịt ở trong kẹt dưới chiếc giường gỗ, rồi anh đến nhà chị Tư Lò Gạch,
Chị Tư đi chợ, chỉ có cô Sáu Hiền ở nhà với cháu Vẹn. Sau năm ba câu chuyện hỏi thăm về gia đình, cô Sáu hỏi Tình:
- Anh có biết chị Mỹ Phượng bây giờ lấy chồng làm gì không?
- Không.
- Chồng chị ấy làm Giáo sư Đại học Sàigòn.
- Tại sao hai người quen nhau? Họ quen nhau từ hồi nào, chắc co Sáu biết chớ?
- Em không biết, vì trong thời gian đó, em ở trong Bưng. Nhưng theo lời chị Tư em nói lại, thì ông Giáo thường ở Sài gòn, ông có Biệt thự ở Đalạt nhưng không ai coi, nên ông mướn ông Cai làm gác dan. Do đó, ông giáo mỗi khi về Đàlat lại gặp chị Phượng. Rồi hai người thương nhau.
- Họ lấy nhau bao giờ?
- Mới Tết năm ngoái. Chị Phượng vừa mới sanh được đứa con trai. Coi bộ hai ông bà thương nhau lắm.
- Sao cô Sáu biết rõ như thế?
- Chị Tư em đến thăm luôn. Hồi chị Phượng chưa lấy ông giáo, chị còn làm việc vườn rau với ông Cai, còn bà Cai thường ra chợ bán trứng gà trứng vịt, và bông hoa. Một hôm chị Tư em đi chợ gặp bà Cai, bà mời về nhà chơi, rồi từ đó chị Tư em thường đến mua hột gà hột vịt của bà. Đám cưới của chị Phượng ngày mùng một Tết năm ngoái, chị Tư em và em có đến giúp.
- Cô Sáu có thường đến nhà ấy không?
- Ngày thường em bận việc ít hay đến. Buồn cười hồi tháng chín năm ngóai, một hôm chị Tư em đến mua hột vịt như mọi lần, bà Cai lấy cho chị Tư em một cái áo dài màu hồng, còn mới tinh, thêu những hoa phượng đỏ. Bà Cai nói đó là áo cưới của anh cho chị Phượng nhưng chị Phượng chưa mặc lần nào, cất trong rương lâu ngày bị gián nhấm. Chị Tư lấy về cho em mặc.
Cô Hiền vui vẻ đứng dậy vào trong buồng, lấy ra chiếc áo hồng, đưa Tình xem. Tình sầm mặt chỉ liếc chớ không muốn ngó. Cô Hiền nói tiếp:
- Em cũng mới mặc thử một lần thôi. Anh coi đây nè. Chiếc áo cưới màu hồng của anh cho chị Phượng, chị chờ anh về cưới chị nhưng chờ hơn ba năm anh không về, chị cứ cất mãi trong rương, không dè bị gián nhấm loang lỗ hết. Mãi đến bảy tháng sau khi chị Phượng lấy chồng, chị soạn đồ trong rương ra mới thấy. Chị bèn lấy chỉ tơ đỏ thêu những cành hoa phượng để lấp mấy chỗ gián cắn, và sẵn đó chị thêu lác đác nhiều cánh hoa phượng trên áo. Nhưng vì chị đã có chồng khác, chị không mặc được chiếc áo cưới của anh, nên chị cho chị Tư em. Chị Tư đem về cho lại em. Anh xem, chiếc áo cưới màu hồng của anh cho chị Phượng nay vẫn là chiếc áo cưới nở đầy hoa phượng! Em cũng mới mặc thử một lần thôi, thấy đẹp quá. Nên em cất đấy, để giành!
Tình ngồi lặng lẽ nghe, nước mắt chảy ràn rụa.
Cô Hiền hỏi:
- Sao anh khóc, anh Tình?
- Thấy chiếc áo cưới màu hồng kia, tôi buồn tủi cho tôi.
Hiền tỏ vẻ hối hận đã vô tình nhắc chuyện ấy ra:
- Trời ơi! Em xin lỗi anh, nghe anh Tình! Em thật thà tưởng nói chuyện vui chơi, biết đâu là, ai ngờ đã làm cho anh buồn!
Hiền lấy que đan và cuộn len, cúi đầu đan. Một lúc cô khẽ bảo:
- Ờ mà quên, em thật là vô tình! Nhắc chi chuyện chiếc áo cưới màu hồng của anh cho chị Phượng?...
Hai người đều im lặng. Một lát, thấy Tình khóc thút thít, Hiền nói:
- Thôi, anh Tình à. Chẳng qua là số phận, anh đừng buồn nữa.
- Tôi chỉ giận thói đời đen bạc...
- Chị Phượng đã giữ một dạ trung thành với anh chớ, chị có bạc nghĩa với anh đâu mà anh giận?
- Trung thành?
- Vâng, chị Phượng vẫn một lòng thủy chung với anh. Mãi cho đến ba năm sau khi chỉ hoàn toàn tuyệt vọng, không có tin tức gì của anh nữa, chỉ mới chịu lấy chồng. Theo chỗ em biết nếu chị Phượng không còn thương anh, thì chị đi lấy chồng lâu rồi, chớ không đợi đến Tết năm ngoái!
Tình đang tức giận cười gằng:
- Cô ấy trung thành với tôi như thế, tôi cũng xin cảm ơn cổ! Trung thành hay không, rồi đây cổ sẽ biết tôi!
Hiền trố mắt ngó Tình:
- Anh nói gì vậy?
Tình bỗng hối hận vì đã lỡ lời vô ý để cho cô Hiền nghi ngờ. Tình liền cải chánh:
- Tôi giận cổ nên nói tầm bậy đó. Chớ thật ra tôi đã định bỏ qua, không nhắc đến cô Phượng nữa. Hiện giờ tôi chỉ lo kiếm việc làm khỏi thất nghiệp.
- Anh nói phải đó. Chuyện đã qua nên cho nó qua! Một nam nhi như anh trong lúc nước nhà gặp cơn nguy biến không làm gì hơn sao, lại để than thở buồn rầu vì một chuyện ái tình?
Tình không muốn nghe cô Hiền nửa. Anh đang còn mang nặng khối hận trong lòng, quyết trút hết cho nhẹ cái mà anh cho là mối thù quyết liệt của anh.
Tình từ giã cô Hiền, nét mặt càng âu sầu ủ dột.
Tám giờ sáng ngày thứ hai, ông Giáo đi Liên khàng để đáp máy bay xuống Sàigòn. Chín giờ chị bếp đi chợ. Hai vợ chồng anh Ba làm vườn cũng đã đi tưới rau. Trong nhà chỉ còn một mình Phượng. Tình viện cớ là đau, giả bộ nằm trùm mền trong buồng tài xế, chín giờ vẫn chưa ngồi dậy.
Nhưng chín giờ mười lăm, biết lúc nhà thật vắng vẻ không còn ai nữa,Tình lốp ngốp bò dậy. Cử chỉ đầu tiên của anh là lấy con dao xắt thịt đút trong lưng quần, phủ dưới áo len.
Nhưng anh còn do dự... bối rối, tay chưn bủn rủn, đứng trong cửa nghe ngóng môt lác. Bỗng có tiếng guốc đi ngang qua ga ra, quẹo lại phòng anh. Tiếng gõ cửa. Anh hỏi:
- Ai?
- Tôi.
Tình mở hé cửa, thấy Phượng? Nhưng Phượng nhìn anh và dịu dàng bảo:
- Anh Tình, tôi có câu chuyện muốn nói với anh. Xin mời anh lên nhà.
Tình rất đỗi ngạc nhiên, càng thèm bối rối. Anh không ngờ Phượng đến tìm anh sáng nay! Tìm để làm gì? Tìm để nói gì? Nhưng anh đã nhứt định thi hành thủ đoạn mau lẹ, trong chốc lát. Anh đi theo Phượng. Phượng mặc áo len xanh trên áo bà ba trắng, quần đen, đi guốc, tóc bới, vẻ mặt vẫn hiền từ nhưng nghiêm trang. Phượng tuyệt đẹp, đẹp hơn xưa.
Phượng mời anh ngồi ghế lớn giữa phòng khách, rồi thong thả khép cánh cửa. Tình toan nhảy xổ lại đâm một nhát dao thật lẹ, rồi tẩu thoát. Nhưng tự nhiên tay anh run. Anh ngồi yên không nhúc nhích. Phượng quay vào ngồi ghế đối diện anh, Phượng ngó Tình với đôi mắt dịu dàng mà Tình đã quen nhìn thuở trước. Tình bỗng ứa nước mắt, nhưng cố nén lòng, hỏi một cách giận dữ:
- Cô còn muốn nói gì nữa?
Phượng ôn tồn bảo, giọng nói thành thật như xưa, nhưng lần này rất cảm động:
- Mong anh đừng giận tôi và nghe tôi nói hết lời. Tôi rất vui mừng được thấy anh trở về, sau bao nhiêu năm cách biệt. Bao nhiêu năm ấy, tôi đã chờ đợi anh, thương nhớ anh, dù hỏi tin tức anh, nhưng ba năm biền biệt, tôi đã thành ra con người tuyệt vọng...
- Tôi cảm ơn cô, nhưng tôi không cần nghe những câu giả dối ấy nữa!
- Anh đừng nóng, anh Tình à. Ngày nay mặc dầu vì hoàn cảnh tôi đã đi lấy chồng, tôi vẫn còn giữ cảm tình với anh nhiều lắm...
Tình run run đứng phăng dậy, nói to:
- Tôi không cần cảm tình của cô! Cô là kẻ thù của tôi, cô biết chưa? Cô là đồ khốn nạn!
- Không! Tôi không phải là kẻ thù của anh, Tôi mong sẽ là bạn của anh. Chồng tôi và tôi sẽ là hai người bạn tốt của anh.
Tình chỏ ngón tay vào Phượng, nói như người điên:
- Tôi đếch cần cô và chồng cô! Cái mặt cô mà xứng đáng làm bạn với tôi à? Cô là con đĩ mà! Cô là con gái điếm, cô biết chưa? Tôi rất tiếc là tôi đã phí tiền mua cho cô chiếc áo cưới màu hồng! Nè, cô Phượng, tôi cho cô biết...
Tình run rẩy thò tay vào dưới áo len, rút ra con dao bén sáng ngời, chỉ dao vào mặt Phượng:
- Bữa nay tôi tặng cô con dao nầy để làm kỷ niệm...
Tình tiến gần đến Phượng. Phượng ngồi yên trên ghế không nhúc nhích, đăm đăm ngó Tình nước mắt cô chảy ràn rụa trên hai gò má. Tình đến ngay trước mặt cô, chòng chọc ngó cô, đôi mắt anh đỏ ngầu, nhưng tay anh run cầm cập tự nhiên để con dao rơi xuống gạch hoa, kêu một tiếng ‘‘kẽng’’…Anh giựt mình khóc oà lên, bỏ chạy ra cửa, xô cửa chạy ra sân, chạy thẳng ra ngoài đường.
Phượng vẫn ngồi yên, gục đầu vào thành ghế khóc nức nở.
Tình đi lảo đảo chừng mười bước, gặp chiếc xe ngựa, anh trèo lên:
- Đường Lò Gạch.
Anh đến nhà chị Tư Lành:
Chi Tư đi chợ, không có ở nhà, anh thú thật hết với cô Hiền những việc vừa xẩy ra tại nhà cô Phượng.
Nghe rõ đầu đuôi câu chuyện và tấn thảm kịch vừa rồi, cô Hiền nghiêm nghị bảo Tình:
- Em không phục thái độ của anh đối với chị Phượng như thế. Trước kia em biết anh là một thanh niên hiền lành đúng đắn, chị Tư của em cũng khen anh, và chị Phượng cũng thường ca ngợi anh, nhưng bây giờ nghe anh vừa kể rõ lối cư xử của anh đối với chị Phượng, em thấy tụi em đều hiểu lầm anh hết. Cử chỉ và ngôn ngữ của anh sáng nay trước mặt chị Phượng, rõ rằng anh là một kẻ thô lỗ, đê hèn, tàn bạo, một nguời không xứng đáng là người, một tên vô loại, không có tư cách, không có lương tâm. Nếu chị Tư của em nghe anh thuật lại rõ ràng hành động vô liêm sỉ của anh sáng nay đối với chị Phượng, chắc là chị Tư đuổi anh ra khỏi nhà. Chính bây giờ em cũng không muốn tiếp anh nữa. Xin lỗi anh Tình, em nói thật như thế.
Tình mắc cở quá, rưng rưng nước mắt tìm lời bào chữa:
- Tôi biết rằng tôi quá nóng giận, nhưng cô Sáu nên hiểu giùm nỗi uất hận của tôi...
- Anh uất hậu nỗi gì? Chị Phượng có tội lỗi gì đối với anh?
- Tội phản bội lời thề xưa...
- Phản bội? Chị Phượng đã một lòng tha thiết yêu anh, thương nhớ anh trong bao nhiêu năm trời, anh có biết không? Ông giáo sư đã ba lần cầu hôn với chị ba lần chị đều nhứt định từ chối, và cương quyết chờ đợi anh, anh có biết không? Suốt ba năm, chỉ đã khóc lóc, đau khổ vì không có tin tức của anh, vì lo sợ cho anh, anh có biết không? Thế anh gọi là phản bội? Chiếc áo cưới màu hồng của anh tặng chị, chị quý hóa giữ gìn trong rương cho đến mãi sau khi chị lấy chồng rồi chị vẫn còn thương tiếc, thấy nó rách chị còn chịu khó thức đến một hai giờ khuya để thêu những cành hoa phượng, thế anh gọi là phản bội? Đàn bà đời nay, chồng người ta chết chưa mãn tang người ta đã tái giá, còn chị Phượng biệt vô âm tín của anh trong ba năm trường, mà vẫn kiên nhẫn đợi anh, thế anh gọi là phản bội? Nếu chị Phượng cố tình phản bội, nếu chị Phượng đã như ai chỉ biết trọng tiền tài mà quên nhơn nghĩa, nếu chị Phượng như ai đã ham nhà cao cửa rộng chức cả quyền cao, thì chị đã lấy chồng ba năm nay rồi, chớ không đợi đến năm ngoái, anh đã biết chưa, anh Tình?
Tình ngồi cúi đầu nghe cô Hiền công kích anh, như nghe một bản án của quan tòa. Hiền nói tiếp:
- Anh ích kỷ lắm! Anh chỉ biết buộc người ta phải trung thành với anh, mặc dầu trong bao nhiêu năm cách biệt người ta đã đau nặng, gần chết phải đi nằm nhà thương Sài gòn một tháng! Tôi nói thật với anh, một cô thiếu nữ biết yêu, biết yêu say mê, biết yêu điên cuồng như chị Mỹ Phượng, trên đời nầy không phải là nhiều đâu nhé!
Cô Hiền lấy que đan và cuộn len, đan được vài mũi lại bỏ xuống:
- Tôi không cần binh vực chị Phượng. Tôi không phải là bạn thân của chị. Trái lại, tôi là bạn của anh, quen biết anh từ thuở còn đi học ở trường Đà lạt. Nhưng hôm nay, tôi thành thật nói với anh rằng tôi mất hết cảm tình với anh rồi. Anh để tay lên lương tâm của anh mà ngẫm nghĩ lại coi: những lời mà anh đã chửi mắng chị Phượng có phải là những lời lẽ của một người có đôi chút giáo dục hay không? Tại sao anh có thể mở miệng nhiếc chị Phượng là đồ dĩ? là còn gái điếm? là đồ khốn nạn? Anh thô lỗ hỗn xược như thế ấy, mà chị Phượng làm thinh, chị còn đáp lại bằng những câu rất tao nhã, rất cao thượng, thế mà anh không biết nhục à? cho đến khi anh cầm con dao bén nhọn tiến tới định đâm chị, mà chỉ vẫn ngồi yên, không nhúc nhích, nước mắt chảy ràn rụa, tôi hỏi anh, có ai can đảm và bình tĩnh được như chị Phượng không? Trước cử chỉ hèn nhát của anh, chị vẫn giữ được thái độ hòa nhã, thanh tao, tôi như anh thì tôi xấu hổ lắm! Anh biết sao chị Phựợng ngồi điềm nhiên trước lưỡi dao sát nhơn của anh không? Vì chị biết rằng anh không thể nào giết chị được! Chị biết rằng một người như anh Tình không bao giờ có can đảm giết một người như chị Phượng! Chị hiểu rõ anh như thế đó. Chị hiểu rõ anh hơn anh. Chỉ một điềm đó cũng đã thấy rằng anh thua kém chị Phượng xa lắm, anh Tình à. Anh không xứng đáng làm chồng chị Phương đâu! Không! không!
Hiền nói đến đây thì chị Tư đi chợ về. Chị Tư rất ngạc nhiên thấy Tình ngồi gục đầu xuống bàn khóc sướt mướt. Hiền nói lại cho chị Tư nghe những việc vừa xảy ra lúc chín giờ tại nhà cô Phượng, do Tình thú thiệt hết. Nghe xong, chị Tư kéo ghế ngồi đối diện với Tình, và khẽ bảo:
- Thôi, cậu Tình à, cậu đừng khóc nữa. Em của tôi, nó công kích hành động của cậu như thế cũng là phải. Nhưng cậu tha lỗi cho, đó là nó lấy tình bạn bè quen biết lâu năm mà thành thật phê bình cậu. Tôi cũng đồng ý với nó. Bây giờ việc đã qua rồi, cậu nên suy nghĩ lại về hoàn cảnh của cậu mà thay đổi thái độ, nhận xét chỗ sai lầm, và xây đắp một cuộc đời lành mạnh, tốt đẹp hơn, vui vẻ hơn, cậu còn thanh niên, tuổi cậu cũng còn nhiều hy vọng, tương lai của cậu còn nhiều hứa hẹn.
Hiền tiếp lời chị:
- Một nam nhi như anh còn biết bao nhiệm vụ cao cả đối với xã hội, với Quốc gia, Dân tộc! Tuổi nầy đâu có phải để than khóc hão huyền vì một mối tình oan trái? Tình yêu? Vâng, nó cũng là một trong những động cơ chánh của cuộc sống bồng bột của tuổi trẻ, nhưng nó đâu phải là một lẽ sống duy nhứt của chúng ta? Chỉ những kẻ nào không có chí hướng, không có mục đích cao quý, không có lý tưởng đấu tranh cho Lẽ Phải, chỉ những kẻ ấy mới lấy nhục thú của tình yêu làm trọng, mới sẵn sàng phạm tội ác vì tình yêu, hủy bỏ tấm thân cho tình yêu, và hy sinh điên dại cho tình yêu. Em biết anh chỉ lỡ lầm trong giây phút cuồng điên chớ anh đâu phải là một thanh niên suy đồi, vô dụng. Anh có nhiều đức tánh quý báu của thanh niên Việt nam. Anh còn cứu vớt được danh dự và phẩm giá của anh bằng sự phấn khởi, hy sinh đời anh cho nghĩa vụ lớn lao...
Chị Tư cũng an ủi Tình nhiều lời dịu dàng và mời Tình ở lại ăn cơm trưa. Tình xin phép chị cho anh mượn ghế bố để nằm nghỉ một lát. Chị Tư và cô Hiền xuống bếp làm cơm và sửa sọan một thúng đậu phộng luộc, và đậu phộng rang để một giờ trưa cho Vẹn đi bán.
Tình kêu ớn lạnh và nhức đầu. Cô Hiền lấy đưa anh hai viên calmine và rót tách nước mời anh uống thuốc. Xong, cô vô buồng lấy ra một chiếc mền đưa anh đắp.
Trưa Tình nóng vùi, nằm mê man không biết gì hết. Cô Hiền vội vàng lấy dầu thoa cho anh, và chạy ra tiệm mua thuốc cảm sốt về cho anh uống. Chiều cô đi hái các thứ lá về nấu xông cho Tình.
Cơn sốt hạ được vài tiếng đồng hồ, rồi 8 giờ tối Tình nóng lại. Cô Hiền để tay lên trán anh, thấy nóng hực. Nhưng trong người anh vẫn lạnh. Tình nằm trên chiếc ghế bố để nhà ngoài, trùm một chiếc mền và hai chiếc chiếu vẫn còn run cầm cập. Chị Tư và bé Vẹn gánh hột vịt lộn, bắp nướng và đậu phộng rang đi bán trên phố Chợ. Một mình cô Hiền ở nhà bắt ghế ngồi cạnh ghế bố, đan áo vừa coi chừng bịnh nhơn. Gian nhà vắng lặng. Dưới ánh đèn leo lét, Hiền để cuộn len xuống đầu gối, nhìn Tình, thương hại. Chốc chốc Tình khẽ bảo,giọng nói rên rỉ, uể oải:
- Cô Sáu ơi, làm ơn cho tôi xin tách nước...
Hiền đứng dậy lại bàn rót nước đem đến giường, dịu dàng đỡ Tình dậy. Cô cầm tách nước khẽ nghiêng vào miệng cho Tình uống.
Một lát Vẹn về đưa Hiền một gói thuốc, lễ phép nói:
- Thưa Dì Sáu, Má con bảo đưa Dì Sáu gói thuốc nóng Iạnh. Dì Sáu rót nước bỏ một chút đường, cho cậu Tình uống liền bây giờ.
- Cám ơn cháu.
Hiền rót một tách nước khác, bỏ thuốc vào với một muỗng nhỏ đường, lẫy muỗng hòa cho đường thật tan, rồi cầm đến cho Tình uống.
Tình uống xong, nhìn Hiền với cặp mắt biết ơn rất cảm động:
- Tôi làm phiền cô Sáu quá... cô Sáu tha lỗi cho tôi...
Hiền mỉm cười dịu dàng, đỡ Tình nằm xuống:
- Anh ngủ đi.
Sáng dậy thật sớm, Tình đi lên phố mội lúc, gần chín giờ trở về nhà chị Tư. Tình mượn cô Hiền một cây bút, lọ mực, và xin một tờ giấy. Tình ngồi bàn, suy nghĩ một hồi lâu, rồi viết:
Lò Gạch, ngày 7 tháng 2.
Kính gởi cô Mỹ Phượng
Tôi rất ăn năn vì những lời nói vô lễ và cử chỉ hỗn xược của tôi đối với cô hồi sáng hôm qua.
Tôi rất hối hận vì đã có ý nghĩ sai lầm về cô.
Hơn nữa, tôi rất kính phục tư cách hòa nhã và cao thượng của cô. Lòng tốt quảng đại vô biên của: cô đã khiến tôi cảm kích vô cùng.
Tôi xin cô tha lỗi cho một kẻ đã mất trí, hành động và tư tưởng mù quáng, tâm hồn bị đè nặng dưới một niềm đau khổ điên cuồng mà tôi kém phần tự chủ.
Tôi xin nghiêng mình thành thật cảm ơn cô và kính chào cô.
TRẦN VĂN TÌNH
Tình đưa thư cho Chị Tư Lành và cô Hiền xem, rồi bỏ vào phong bì không dán, rồi nói:
- Chị Tư à, sáng nay em phiền chị một việc, nhờ chị giúp em. Em vừa ra phố may mắn gặp anh Hai Ngơi mà em đã quen từ dưới Sàigòn. Anh là một tài xế giỏi, rất thạo máy và tư cách đàng hoàng, tính nết hiền lành lễ phép. Anh cũng đang thất nghiệp vì chủ anh là người Tây vừa mới xuống tàu về Pháp. Em có chỉ nhà ở đây và hẹn anh chín giờ rưởi đến. Anh vui vẻ nhận lời em nhờ anh vô giúp việc cho ông Giáo và cô, thay thế em. Vì em đã suy nghĩ kỹ: em nên xin thôi, để kiếm việc làm nơi khác. Em cũng không nên phá hạnh phúc của cô Phượng, hạnh phúc êm đẹp mà cô rất xứng đáng đưọc hưởng, và em cũng thành thật mừng cho cô đã gặp được người chồng rất tốt như ông Giáo. Em đã hoàn toàn hối hận về hành động của em hôm qua. Vậy, chốc nữa anh Hai Ngơi đến, em nhờ chị làm ơn cầm bức thư nầy đến đưa cô Phượng, nhờ chị nói rõ ý định của em và chị giới thiệu giùm anh tài xế mới. Anh có đủ các giấy tờ chứng chỉ tốt.
Chị Tư cười:
- Được, việc ấy tôi xin sẵn lòng giúp cậu.
Cô Hiền cũng mỉm cười, dịu-dàng nói:
- Thế là anh Tình đã trở lại anh Tình! Anh Tình có thế mới là anh Tình chứ!
Hiền và Tình trao đổi cùng nhau một nụ cười đầy hứa hẹn..