← Quay lại trang sách

Chương XVI

Thấm thoắt mà đã hai chục năm rồi, kể từ ngày đoàn xe Áo đầu tiên sơn màu vàng chạy qua cầu. Hai chục năm bị chiếm đóng biết bao nhiêu ngày và tháng! Mỗi ngày mỗi tháng đó tách riêng ra thì có vẻ bấp bênh, tạm thời, nhưng gom cả lại thì thành một thời kỳ bình an; tiến bộ vật chất tương đối dài nhất mà dân thị trấn còn nhớ được.

Trong mấy chục năm có vẻ thịnh vượng, kiếm được tiền chắc chắn đó, tuy nhiều khi chẳng được bao nhiêu, các bà mẹ nhắc tới con trai, thường thêm một câu: “Miễn Trời cho nó sống, đừng đau ốm và kiếm ăn được dễ dàng?.” Cũng trong những năm đó, vợ chú Ferkhat, một anh chàng cao lớn lúc nào cũng nghèo khổ, tối tối lo việc đốt đèn trong thị trấn để lãnh một số lương tháng là mười hai florin, khoe với người ta rằng: “Nhờ Trời, anh Ferkhat nhà tôi được làm nhân viên ở Thị sảnh.”

Mấy chục năm cuối thế kí XIX trôi qua như vậy, không gây xúc động gì nhiều, không có biến cố gì hơn như một dòng sông lặng lẽ chảy tràn bờ trước khi tới một hà khẩu. Cơ hồ như những thanh âm bi thảm đã biến mất trong đời sống ở Châu Âu cũng như ở Vichégrad. Và khi từ một nơi nào đó trên thế giới, chúng có nổi lên thì cũng không tới đây, hoặc tới mà chúng ta cho là xa quá không hiểu nổi.

Chẳng hạn một ngày hè nọ sau bao nhiêu năm, mới lại thấy một tờ bố cáo màu trắng dán ở cái kapia. Nó ngắn thôi, lần này đóng khung đen, báo rằng Nữ hoàng Elizabeth đã băng hà ở Genève, bị một tên phiến loạn Ý tên là Luccheni ám sát. Tờ bố cáo còn bảo tất cả dân tộc trong đế quốc Áo Hung đều ghê tởm và rất đau lòng, và khuyên dân chúng phải trung tín và đoàn kết chặt chẽ hơn nữa chung quanh ngai vàng. Thái độ đó của họ sẽ là niềm an ủi lớn nhất đối với tân quân sau cái tang lớn đó.

Tờ bố cáo cũng dán lên trên cái bia trắng như tờ tuyên ngôn của tướng Filipovitch khi quân đội Áo vô chiếm đóng thị trấn; dân chúng đọc mà cảm động vì là một Nữ hoàng, một người đàn bà, nhưng chẳng hiểu gì nhiều và cũng chẳng thương tâm cho lắm.

Trong vài đêm, trên kapia không có tiếng hát, những cuộc vui ồn ào, vì có lệnh cấm ngặt.

Chi có mỗi một người trong thị trấn là đau khổ vì tin đó tức chú thợ cả Pitro Sola, người Ý duy nhất ở Vichégrad, làm thầu khoán, thợ nề, thợ đục đá, thợ sơn, tóm lại là làm mọi việc lặt vặt chuyên môn trong thị trấn. Mọi người đều gọi chú là Pero. Chú tới thị trấn vào lúc quân Áo lại chiếm đóng, lập nghiệp ở đây, cưới một thiếu nữ nghèo, không đứng đắn, tên là Stana. Tóc hung hung, khỏe mạnh, to lớn gấp hai người chồng, miệng lưỡi độc địa mà hơi một chút là thượng cẳng tay, hạ cẳng chân, nên không ai muốn gây với mụ cả. Trái lại chú Pero là con người nhỏ nhắn, khòm lưng, hiền lành, mắt xanh lơ, râu mép cụp xuống. Chú làm ăn giỏi, kiếm được nhiều tiến. Lần lần chú được coi như người sinh trưởng ở Vichégrad, nhưng cũng như nàng Lotika không làm sao nói thạo và đúng giọng tiếng ở đây được. Chú được mọi người mến vì khéo tay và tính tình hiền lương; còn mụ vợ, mạnh như một lực sĩ, chỉ huy chú nghiêm khắc như mẹ đối với con.

Hôm đó đi làm về, quần áo đầy bụi đá xám và vết sơn chú đọc tờ bố cáo trên cái kapia, kéo sụp mũ xuống tới mắt, hàm răng lập cập nghiến chiếc ống điếu nhỏ. Và mỗi lần gặp ai quan trọng và nghiêm trang, chú lại giảng giải rằng tuy là người Ý, chứ chú không dính dấp gì với thằng Luccheni và cái tội ghê tởm của nó. Người ta nghe chú biện minh, vỗ về chú, bảo rằng người ta tin chú, mà từ trước cũng chẳng ai ngờ chú cả, nhưng chú cứ vẫn giảng giải rằng sống như vầy chú xấu hổ quá đi, suốt đời chú không dám giết một con gà nữa chứ đừng nói là một người, nhất là lại một người đàn bà, một nhân vật cao quí như vậy.

Riết rồi nỗi sợ của chú hóa ra điên khùng, kỳ cục. Dân chúng bắt đầu chế nhạo chú. Tụi con nít bày đặt ra một trò tàn nhẫn: chúng núp sau một hàng rào, đợi chú đi qua là la lên: “Luccheni!” Tội nghiệp chú ta vội vàng kéo sụp mũ xuống tận mắt, chạy về nhà như bị ong châm, gục đầu vào cặp đùi đồ sộ của vợ mà than thở, khóc lóc: -Anh xấu hổ quá, xấu hổ quá, không dám nhìn vào mặt ai nữa.

- Đồ ngu, xấu hổ cái gì, hả? Xấu hổ vì một thằng Ý đã giết Nữ hoàng ư? Có đáng xấu hổ là vua Ý kia chữ! Còn anh là cái thứ gì, mà phải xấu hổ?

Anh xấu hổ vì sau vụ đó mà còn sống.

Mụ vợ mắng chú ta, bảo đi qua khu thương mại thì cứ can đảm cương quyết ngửng đầu lên, đừng nhìn xuống. dù là trước mặt bất kỳ ai.

Trong khi đó, hạng người lớn tuổi ngồi yên trên cái kapia, mắt nhìn xuống, nghe các tin tức đăng trên báo về vụ ám sát Nữ hoàng áo, có dịp bàn về số phận các vua chúa và các quan lớn. Husseil Efendi, bề trên trong chủng viện Vichégrad, giảng cho một bọn thân hào Thổ tò mò và dốt nát trong khu thương mại hiểu bọn phiến loạn ám sát Nữ hoàng đó là bọn nào.

Râu ông đã bạc trắng nhưng vẫn cắt xén kỹ lưỡng thành vòng cung. Tủ sách của ông, nhờ nó ông nổi danh là nhà thông thái, ông vẫn chưa đọc, mà hai chục năm nay, tập ký sự về thị trấn mới viết thêm được bốn trang. Theo các sách cổ mà tôn sư của ông, học giả danh tiếng Arap Hodja đã để lại cho ông thì bọn ngày nay người ta gọi là vô chính phủ đó, từ thời nào tới giờ cũng vẫn có, và sẽ có hoài cho tới ngày tận thế. Vì đời sống của nhân loại đã được thượng đế duy nhất, an bài như vậy: Cứ một “lượng” thiện thì có hai “lượng” ác, mà trên trái đất này, không thể có lòng nhân từ mà không có lòng oán hận, có cao sang mà không có ghen ghét, cũng như không có vật nào – dù nhỏ tới đâu – mà không chiếu một bóng tối. Luật đó đặc biệt đúng cho hạng người cực cao quí, sùng đạo và nổi danh. Luôn luôn có một tên sát nhân rình rập bên cạnh để ám sát họ, không sớm thì muộn.

Chẳng hạn vị tể tướng Mehmed Pacha quê hương ở đây và đã lên thiêng đường từ lâu – vừa nói, Hussein Efendi vừa trỏ tấm bia đá ở phía trên tờ bố cáo – ngài đã thờ ba triều vua, minh triết hơn Asaf, đã dùng uy quyền và lòng mộ đạo mà cho xây cất chiếc cầu này để ngày nay chúng ta ngồi, chính ngài cũng bị tụi vô chính phủ đâm chết. Mặc dầu quyền uy và minh triết, ngài cũng không tránh được họa đó. Những kẻ mà kế hoạch bị ngài cản trở kết hợp nhau thành một đảng lớn mạnh tìm cách mua chuộc một giáo sĩ điên để giết ngài khi ngài lài giáo đường tụng niệm giữa trưa một ngày thứ Sáu. Nó khoác chiếc áo cũ, cầm chuỗi hột, giả dối, khúm núm xin tiền ngài và khi ngài thò tay vào túi lấy tiến thì nó đâm ngài. Thế là ngài đã tắt thở như một vi tuẫn đạo

Người ta ngồi nghe mà phì phà điếu thuốc, lúc thì ngó tấm bia đá có những chữ Thổ, lúc thì nhìn tờ bố cáo bằng giấy trắng đóng khung đen. Họ chăm chú nghe mặc dầu không hiểu hết ý nghĩa mỗi tiếng. Nhưng họ cũng đoán rằng ở một nơi xa xôi nào đó, có một cuộc sống lúc thăng lúc trầm, vinh quang mà bi đát, chẳng bù với cuộc sống yên lặng, đơn điệu như cây cỏ trên cái kapia này.

Những ngày đó rồi cũng trôi qua như những ngày khác. Trên kapia người ta lại chuyện trò lớn tiếng, đùa cợt ca hát như cũ, không nói về bọn phiến loạn vô chính phủ nữa. Tờ bố cáo về cái chết của Nữ hoàng ngoại nhân ít ai biết đó phai màu vì dãi dầu mưa nắng và bụi, gió đánh rách tả tơi, bay tản mát trên bờ sông.

Trong một thời gian ngắn, bọn vô lại còn đi theo Pero mà la “Luccheni!”, chẳng hiểu tiếng đó có nghĩa gì, mà la như vậy vì lẽ gì, có lẽ chỉ vì chúng có cái nhu cầu con nít muốn chọc phá, hành hạ những kẻ yếu ớt và dễ xúc động. Rồi chúng cũng hết la vì tìm được trò chơi khác Một phần cũng nhờ mụ Stana đã đánh hai đứa con trai la lớn nhất một trận nên thân nữa.

Sau một hay hai tháng, không ai nhắc tới cái chết của Nữ hoàng, tới bọn phiến loạn nữa (…)

Qua năm 1900. Thế là hết thế kỷ sung sướng đó, và bắt đầu một thế kỷ mới mà nhiều người cho là sẽ sung sướng hơn nữa. Năm đó một bọn kỹ sư mới lại xem xét cấy cầu Không ai đoán được họ tính làm gì, vì ai cũng cho chiếc cầu đó là một vật vĩnh cửu, không thay đổi được cũng như mặt đất dưới chân, vòm trời trên đầu. Bọn kỹ sư dòm ngó chung quanh, đo, ghi chép rồi đi, và người ta không nhớ tới nữa. Nhưng giữa mùa hè, khi

mực nước thấp nhất, một bọn thầu khoán và thợ thình lình tới cất tạm mấy cái trại để chứa đồ, rối cất giàn ở chung quanh các cột cầu, dựng trên cầu những dụng cụ có trục để kéo đồ nặng. Thợ tìm những chỗ nứt hoặc có cỏ mọc trong kẽ đá của cột cầu, bít những lỗ đó lại, nhổ cỏ đi phá các ổ chim. Xong công việc đó, họ mới sửa nền móng của cầu bị nước xoáy làm hư. Người ta chặn dòng nước lại, cho nó chảy qua chỗ khác, để lộ ra những phiến đá đóng đen, đã bị xoi mòn, và vài cái đà bằng gỗ sên cũng mòn nữa, nhưng cứng như đá vì đã ngâm dưới nước ba trăm ba chục năm rồi.

Mùa hè đó thiên hạ không thể ngồi trên kapia được, và đời sống bình thường ngưng hẳn ở chung quanh cầu. Chỗ nào cũng nghẹt vì ngựa, xe chở xi măng và cát. Ngay trên cái kapia cũng chất đầy ván.

Dân chúng ngó những công việc mà ngạc nhiên, thắc mắc. Có người nói đùa vài câu, có kẻ chì vung tay lên rồi đi ngang qua nhưng mọi người đều nghĩ rằng bọn ngoại nhân làm công việc này cũng như mọi công việc khác chỉ vì họ phải làm một cái gì đó, không thể ở yên được.

Những kẻ quen ngồi chơi trên kapia bây giờ lại ngồi trước lữ quán của Lotika, trước quán rượu của Zarié hoặc trước những tấm cửa gỗ ở phía trước các tiệm bên cạnh cầu. Tại đó họ uống cà phê, chuyện trò với nhau đợi cho cái kapia được “giải thoát” mà cuộc tấn công chiếc cầu này chấm dứt, như người ta đợi hết một cơn mưa rào, hết một chuyện trắc trở.

Mới sáng sớm mà hai người Thổ vô công rồi nghề đã tới ngồi trước tiệm của Ali Hodja nói chuyện về đủ thứ, nhất là về chiếc cầu. Tiệm đó chen vào giữa lữ quán bằng đá và quán rượu của Zarié, thành thử đứng trước cửa tiệm nhìn chênh chếch thấy cái cầu. Ali Hodja có vẻ suy tư nghe hai người đó nói chuyện mà làm thinh, cau có nhìn chiếc cầu trên đó bọn thợ lăng xăng như đàn kiến.

Trong hai chục năm nay, ông đã cưới ba bà vợ. Bà bây giờ trẻ hơn ông nhiều, và những kẻ độc miệng trong khu chợ bảo vì vậy mà buổi sáng nào ông cũng gắt gỏng, tới trưa mới hết. Ba bà vợ đó sanh được mười bốn người con còn sống cả. Suốt ngày chúng la hét đinh tai nhức óc ông, và trong khu chợ người ta nói đùa rằng ông không nhớ hết tên các con ông. Người ta còn bịa chuyện ra rằng một hôm một đứa con ông gặp ông trong một đường hẻm, lại nắm tay ông hôn, ông xoa đầu nó, bảo: “Con ngoan lắm, nhưng ba má con là ai?”

Coi bề ngoài thì ông không thay đổi gì nhiều. Chỉ mập hơn trước mà nước da bớt hồng hào thôi. Đi cũng không lanh lẹn như trước, leo dốc Meidan chậm hơn để về nhà, vì ít lâu nay tim ông làm cho ông nghẹt thở, cả trong giấc ngủ. Vì vậy ông lại bác sĩ Marovski trong quận để nhờ coi mạch; bác sĩ là người mới duy nhất được ông chấp nhận và quí mến. Bác sĩ cho ông uống một thứ thuốc giọt không trị dứt được bệnh nhưng cũng dễ chịu hơn. Nhờ bác sĩ mà ông biết được một danh từ la-tinh, tên bệnh của ông: Angina pectoris.[83]

Ông là một trong vài người Thổ ở Vichégrad không chịu chấp nhận những cái mới những sự thay đổi do ngoại nhân đem lại, từ cách ăn mặc, làm ăn tới quan niệm ngôn ngữ, thương mại của họ. Hồi trước ông phản đối phong trào kháng Áo mà ông biết là vô vọng một cách gay gắt, ương ngạnh ra sao thì bây giờ cũng vậy, ông chống hết thảy những cái gì là Boche, là ngoại lai, vì vậy đôi khi xung đột với thiên hạ mà phải nộp phạt ở ty cảnh sát. Bây giờ ông đã hơi mệt mỏi, chán nản rồi. Thực ra tính tình cũng vẫn như trước khi ông tranh biện với Karamanlia trên cái kapia: bướng binh, và ý kiến khác đời, luôn luôn như vậy trong mọi việc. Nhưng tánh trực ngôn của ông đã hóa ra chua chát mà tánh hay gây gổ của ông đã hóa ra cay đắng, rầu rĩ, dù ông có dùng những lời bạo nhất cũng không hả dạ được nữa và ông đành làm thinh, sống trong cảnh cô liêu, chỉ thấy mặt người khác, ông cũng khổ tâm, bực bội rồi, dù là bọn ăn không ngồi rồi trong khu thương mại, các khách hàng của ông, bà vợ trẻ hay bầy con đông của ông. Mặt trời chưa mọc ông đã trốn khỏi nhà, ra tiệm, mở cửa tiệm trước cả mọi người. Ông đọc kinh ở đó, có khi ăn bữa trưa ở đó nữa. Khi nào ngán nghe người ta nói chuyện, ngán nhìn khách qua đường, ngán cả việc buôn bán thì ông khép cửa tiệm lại, rút vào trong một cái phòng hẹp ở phía sau, mà ông gọi là “cái quan tài” của ông. Phòng đó kín đáo, chật thấp và tối, một mình ông vô mà muốn chật rồi. Ngồi trong phòng ông nghe qua bức tường mỏng những tiếng động ở ngoài, tiếng vó ngựa, tiếng người rao hàng, như của một thế giới khác (…) Nghỉ ngơi được một lát, tỉnh trí lại rồi, ông mới lại trở ra mở cửa hàng như thể ở đâu mới về vậy.

Lúc này đây ông đương nghe câu chuyện phiếm của hai người láng giềng.

Một người trong khu chợ ai cũng biết là hạng ăn hại, vừa nhấp cà-phê vừa lên giọng triết lý: -Anh thấy thời gian và ân huệ của Trời đấy không? Tới đá mà cũng mòn như gót giày vậy. Nhưng tụi Boche đâu có chịu để như vậy, hễ cái gì bể vỡ thì chúng sửa lại liền.

Người kia đáp: -Thôi đi anh ơi, hễ con sông Drina mà còn thì chiếc cầu cũng vẫn còn. Dù chúng không đụng tới thì Trời cho nó đứng được bao lâu, nó sẽ đứng được bấy lâu. Sửa sang hỗn độn như vậy chỉ phí tiền vô ích.

Họ còn tranh luận phiếm như vậy một hồi lâu, nếu Ali Hodja không ngắt lời họ: -Tôi thì tôi nói cho các chú nghe này: Chúng đụng vào cái cầu như vậy là không nên, các chú sẽ thấy sự trùng tu này chỉ gây hại thôi. Hôm nay họ sửa đấy thì ngày mai họ sẽ phá. Cụ Mouha Ibrahim hồi sinh tiền bảo tôi cụ đã đọc trong sách rằng một dòng nước đương chảy thì cứ để mặc nó, đừng khơi dòng chuyền hướng nó đi dù là chỉ trong một ngày hay một giờ, tội lớn đấy. Nhưng tụi Boche nếu không đập phá, hí hoáy làm cái này cái kia thì tự cho là sống cũng như chết. Chúng dám đụng tới con mắt nữa. Ngay trái đất, nếu có thể, chúng cũng sẽ lật ngược lại

Một trong hai gã ăn không ngồi rồi kia bảo xét cho cùng thì tụi Boche sửa cầu, đâu có hại gì lớn: dù sao nếu cầu không vững bền hơn thì cũng chẳng hư thêm.

Ông Hodja nổi giận lên: -Tại sao chú biết rằng chẳng có hại cho cầu? Ai bảo chú vậy? Chú biết không, chỉ một lời nói cũng dủ diệt nhiều thị trấn, huống hồ cuộc xáo trộn như vậy. Chỉ một lời của Thượng đế tạo nên cả thế giới này. Nếu chú biết đọc biết viết, nếu chú thông thái, thì chú đã biết rằng cây cầu này không phải như những kiến trúc khác nó được dựng lên vì Thượng đế và đó ý Thượng đế. Chú nghe các ông già bà cả kể chuyện về cái lữ quán bằng đá đấy chứ: khắp đế quốc không có một lữ quán thứ hai như vậy mà rồi kẻ nào đã phá nó? Nó đượcc xây cất chắc chắn và có nghệ thuật như vậy thì có thể tồn tại được ngàn năm chứ, vậy mà nó đã biến mất như thể nó bằng sáp, và bây giờ trên cái nền của nó, một bầy heo ủn ỉn trong tiếng kèn của tụi Boche.

Người kia cố cãi lại: -Nhưng tôi nói, tôi nghĩ rằng …

Ông Hodja ngắt lời: -Chú nghĩ bậy … Tôi bảo chú rằng tất cả các điều đó vô ích, không báo trước một cái gì tốt đẹp đâu, sẽ tai hại cho cả chiếc cầu lẫn thị trấn và bọn chúng ta nữa.

Người kia nhớ lại những nỗi đau khổ trước kia Ali Hodja phải chịu trên cái kapia[84], thốt một câu hơi độc ác: -Vâng, đúng vậy. Ông Hodja biết rõ hơn ai hết thế nào là một cái cầu mà.

Ông Hodja, giọng quyết tín, bảo: -Đừng nghĩ rằng tôi không biết nghen.

Bây giờ bình tĩnh rồi, ông bắt đầu kể lại một truyện cổ tích mà người ta không tin nhưng vẫn thích nghe, nghe nhiều lần nữa.

- Thân phụ tôi hồi sinh tiền được cụ Cheikh Deviyé kể cho nghe do đâu mà có cầu và chiếc cầu thứ nhất của loài người xây dựng ra sao. Truyện đó; thân phụ tôi kể lại cho nghe từ hồi còn nhỏ. Truyện như vầy: Khi Allah[85] toàn năng sáng tạo thế giới này thì mặt đất phẳng và nhẵn như một cái mâm chạm trổ rất đẹp vậy. Quỉ bất bình ghen tị rằng Thượng đế, không cho nó mà cho loài người. Hồi đó mặt đất mới được Thượng đế nặn xong, còn ướt và mềm như bột nhồi, quỉ len lỏi và lấy móng tay cào mặt trái đất thật nhiều và thật sâu, do đó mà thành những sông lớn, những vực thẳm ngăn cách xứ này xứ khác, dân tộc này, dân tộc khác, mà loài người không đi đi lại lại dễ dàng trên trái đất của Thượng Đế ban cho, như đi trong vườn, để kiếm ăn nữa. Truyện kể vậy Allah thấy sự phá phách ô uế đó của qui, tiếc lắm, nhưng không thể làm lại công trình của ngài được, bèn phái các vị thiên thần xuống giúp đỡ loài người. Khi các vị này thấy loài người đau khổ đứng ngó nhau, gọi nhau từ bờ bên này qua bờ bên kia, không biết làm cách nào vượt những vực thẳm để làm ăn được các vị mới xòe cánh ra cho loài người leo lên cánh mà qua sông. Nhờ vậy loài người mới nảy ra ý xây cầu. Cho nên dựng phông-ten nước là việc ích lợi nhất, rồi tới việc xây cầu, mà kẻ nào đụng chạm tới một chiếc cầu là mắc một tội rất nặng, vì chiếc cầu nào cũng vậy, từ một cầu khi bắc ngang qua một cái thác trên núi, tới công trùth đẹp đẽ này của tể tướng Mehmed Pacha, đều được một vị thiên thần canh gác, bảo vệ, cho tới ngày nào Thượng đế bảo bỏ thì mới thôi.

Hai người kia đều lễ phép tán thưởng: -A, hay quá, hay quá!

Họ nói chuyện với nhau như vậy cho ngày giờ mau qua trong khi công việc tiến hành ở cầu, và tiếng kút kít của những xe bù ệt, tiếng ồn ào của máy trộn cát và xi măng vọng tới tai họ.

Ali Hodja thấy ai lại gần cửa hàng, dù là người mua bán, hay chi là người qua đường, cũng thuyết với họ như vậy. Ai cũng làm bộ chăm chú nghe ông, vẻ tò mò hoặc giễu cợt, nhưng không ai đồng ý với ông cả; từ lâu rồi người ta coi ông là người ương ngạnh, khác đời, bây giờ vì già vì hoàn cảnh khó khăn, vì bà vợ trẻ nữa, ông thấy cái gì củng có một màu hắc ám, cho cái gì cũng có một ý nghĩa huyền bí, báo một điềm gỡ.

Đa số dân chúng thị trấn thản nhiên với những việc xảy ra trên cầu, cũng như với các công việc khác của bọn ngoại nhân trong thị trấn và các miến lân cận. Nhiều người kiếm ăn được nhờ chở cát, gỗ và thức ăn cho thợ. Chỉ bọn con nít là thất vọng khi thấy thợ leo lên giàn, chui vô lỗ hổng trong cột đầu ở giữa, tức vô “cái phòng” mà chúng tin là có thằng mọi da đen. Bọn thợ hất vô số rổ cứt chim liệng xuống sông rồi chui ra. Chi có thế thôi.

Chúng đợi hằng giờ trên bờ sông, mong thấy thằng mọi xuất hiện, thoi mạnh vào ngực người thợ đầu tiên nó gặp, làm cho người đó văng lên trời, nhào xuống sông, nhưng chẳng thấy gì cả, vì vậy mà chúng tới trường trễ. Vài đứa nhỏ xíu thất vọng, bực mình, ráng kể rằng thằng mọi xuất hiện thực, nhưng chẳng ai tin. Bọn con trai chế nhạo chúng, chúng thề gì thì thề, cũng vô ích.

Ngay khi sửa xong cầu, người ta bắt đầu công việc dẫn nước. Từ trước, thị trấn chỉ có những phông-ten nước bằng gỗ, mà chỉ có hai cái ở trên khu Meidan là chứa nước suối, Còn những cái kia ở dưới thị trấn, thông với hai con sông Drina và Rzav. Mùa lụt thì nước đục mà mùa hè, khi rất nóng nực thì nước sông cạn. Các kỹ sư bảo nước đó không lành. Bây giờ người ta dẫn nước từ xa, từ trên núi, phía dưới Kabernik, bên kia sông Drina do đó phải bắt ống nước qua cầu để vô thị trấn.

Chiếc cầu lại náo động, ồn ào lên. Người ta bẫy những phiến đá lát lên, đào một đường để đặt ống nước. Người ta đốt lò than để nấu cho chảy hắc ín và chì. Thiên hạ lại nghi ngờ tò mò ngó các công việc. Ali Hodja cau mày vì khói bay qua tới tiệm ông, và khinh bì cái thứ nước “tà giáo” chảy trong các ống sắt đó, không thể uống được cũng không tắm gội được; thứ nước đó, nếu còn loài ngựa quí như hồi xưa thì chúng cũng không thèm uống. Ông mỉa mai nàng Lotika đã cho bắt nước vào lữ quán. Và ông giảng giải cho những người nào muốn nghe ông rằng công việc dẫn nước đó là một điềm báo trước những tai nạn chưa biết ra sao mà sớm muộn gì thị trấn cũng phải chịu, không sao tránh khỏi.

Nhưng mùa hè năm sau, các ống nước đã đặt xong, và một dòng nước trong, chảy chan chứa trong các phông-ten mới bằng sắt, không tùy thuộc các mùa lụt và hạn hán nữa. Nhiều người cho bắt nước vào sân, có kẻ vào cả trong nhà nữa.

Mùa thu năm đó người ta khởi công xây đường xe lửa. Công việc này lâu hơn, quan trọng hơn. Mới đầu, nó có vẻ không liên quan gì với chiếc cầu nhưng đó chỉ là bề ngoài thôi.

Đường rầy hẹp; trên báo chí và công văn, người ta gọi nó là “đường xe lửa phương Đông.” Nó sẽ nối Sarajevo với biên giới Serbie, với Vardichté và với biên giới Thổ ở Ouvats, miền Sandjak. Nó sẽ chạy ngang qua Vichégrad, tại đây sẽ có nhà ga quan trọng nhất trên suốt con đường.

Trên khắp thế giới người ta đã viết nhiều, nói nhiều tới sự quan trọng về chính trị và chiến lược của con đường đó; rồi đây miền Bosnie Herzégovine nhất định sẽ bị sát nhập vào Áo – Hung. Áo – Hung sẽ nhắm những mục tiêu xa hơn nữa, vượt miền Sandjak mà tiến về phía Salonique, gây ra đủ các vấn đề rắc rối. Nhưng ở đây, trong thị trấn, mọi sự có vẻ chẳng những vô hại mà còn hấp dẫn nữa: có thêm nhiều thầu khoán, nhiều thợ và những nguồn lợi mới cho nhiều người.

Lần này, cái gì cũng đại qui mô. Mất bốn năm mới xây xong con đường dài 166 cây số, có khoảng một trăm cái cầu trên sông, trên cạn và chừng 130 đường hầm, phí tổn hết thảy là 74 triệu đồng tiền vàng. Thiên hạ nói tới số tiền lớn đó và ngó mông lung ra phía chân trời như để cố nhìn thấy cái núi vàng mà không ai tính nổi, tưởng tượng nổi đó. Nhiều người ở Vichégrad ra vẻ thông thạo, lặp lại: “Bảy mươi bốn triệu!”, như thể chính họ đã đếm số tiền đó rồi. Vì cả trong thì trấn hẻo lánh nây mà hai phần ba hoạt động vẫn còn giữ tính cách phương Đông, thiên hạ bây giờ cũng đã bắt đầu lệ thuộc những con số, tin ở các thống kê. “Bảy mươi bốn triệu nghĩa là mỗi cây số tốn gần nửa triệu, đúng ra là 445.782 đồng tiền vàng”. Những con số lớn đó làm cho họ khoái trá lắm, nhưng chẳng vì vậy mà họ giàu có hơn.

Trong thời làm đường xe lửa, dân chúng cảm thấy lần đầu tiên rằng kiếm tiền không còn dễ dàng, chắc chắn, khỏi phải lo lắng như những năm mới bi chiếm đóng nữa. Trong mấy năm trước giá cả các hàng hóa và nhu yếu phẩm đã nhảy vọt vài lẳn rồi, cứ tăng mà không bao giờ giảm rồi sau một thời gian ngắn hoặc dài lại vọt lên nữa. Kiếm được tiền đấy, tiền công trả cũng khá đấy, nhưng vẫn ở dưới mức nhu cầu thực sự khoảng hai chục phần trăm. Nhiều chủ nhân làm giàu cấp kỳ sau khi bị chiếm đóng, mười năm hay hai mươi năm trước, bây giờ hóa nghèo và con cái phải đi làm thuê cho người khác Đã dành, có những người mới phát giàu, nhưng tiền trong tay họ trôi đi như thủy ngân, y như một ảo ảnh, rồi lại trơ hai bàn tay trắng mà còn bị nhục nhã nữa.

Càng ngày người ta càng thấy rằng đời sống dễ dàng hơn, dễ kiếm ăn hơn, nhưng cũng có mặt trái, rằng tiền bạc với người có tiền chỉ như những món tiền đặt trong một canh bạc lớn, biến hóa tới nỗi không ai biết phép đánh ra sao, không ai đoán được hậu quả ra sao. Và hết thảy chúng ta đều dự vào cuộc đỏ đen đó, kẻ đặt tiền nhiều, kẻ đặt tiền ít, nhưng người nào cũng luôn luôn chịu sự may rủi cả.

Mùa hè năm thứ tư, chuyến xe lửa đầu tiên kết lá cây và treo cờ chạy qua thị trấn. Thật là một cuộc vui lớn cho dân chúng. Người ta dọn một bữa ăn với mấy thùng rượu la-ve cho thợ thuyền. Các kỹ sư chụp hình với nhau ở bên cạnh cái đầu máy đầu tiên. Chuyến đi

hôm đó không phải trả tiền. Ali Hodja mỉa mai những người đi luyến đầu tiên đó: -Một ngày không phải trả tiền, nhưng suốt đời phải dốc túi.

Chỉ khi đường xe lửa làm xong rồi xe bắt đầu chạy rồi, người ta mới thấy chiếc cầu quan trọng cho nó ra sao vai trò của nó trong đời sống và số phận của thị trấn ra sao. Nó lượn theo bờ hiểm trở của sông Drina dưới chân đồi Meidan, đi ngược lên, ăn lõm vào trong đồi, chạy vòng quanh thị trấn rồi đổ xuống cánh đồng, gần những căn nhà cuối cùng trên bờ sông Rzav. Tại đó có nhà ga. Từ nay hành khách và hàng hóa đi Sarajevo, rồi từ Sarajevo qua phương Tây, đều khởi hành từ trên hữu ngạn sông Drina. Tả ngạn và chiếc cầu hoàn toàn bị tê liệt. Chỉ còn những dân quê các làng trên tả ngạn mới qua cầu với những con ngựa nhỏ chở đồ, những chiếc xe bò hoặc xe ngựa chở gỗ từ rừng lại nhà ga.

Con đường cái từ cầu leo qua đồi Lieska tới miền Semetch, rồi từ đó tới Sarajevo, xa kia vang lên tiếng ca hát của xà ích tiếng lục lạc của ngựa, bây giờ ít ai đi, cỏ bắt đầu phủ, rêu xanh bắt đầu đóng một lớp mỏng. Những người đi xa không dùng cầu đó nữa, người ta không tiễn nhau tới cầu nữa, không cỡi ngựa qua cầu, và ngồi trên lưng ngựa mà uống cạn bình rượu khởi hành nữa.

Xà ích, ngựa, xe bò có mui bằng vải bố, xe ngựa nhỏ thuê để đi Sarajevo, bày giờ lúc thất nghiệp bỏ không. Chỉ mất hết thảy bốn giờ xe lửa, chứ không như xa mất trọn hai ngày, và một đêm nghỉ lại ở Rogatitsa. Những con số đó khiến mọi người phải suy nghĩ. Người ta suy tính đi nhanh như vậy lợi được những gì, tiết kiệm được bao nhiêu tiền. Người ta cho là một hiện tượng lạ khi thấy những người đầu tiên đi từ Vichégrad lại Sarajevo tính toán công việc làm ăn rồi trở về nhà ngay chiều hôm đó.

Chỉ có Ali Hodja là khác người, nghi ngờ, ương ngạnh, bộc trực, luôn luôn chống lại thiên hạ. Ai khen nhờ xe lửa mà giải quyết việc làm ăn được mau hơn, tiết kiệm được thì giờ, sức lực, tiền bạc, thì ông gắt gỏng đáp rằng điều quan trọng không phải là tiết kiệm được bao nhiêu thì giờ, mà là cách dùng thì giờ tiết kiệm đó ra sao: nếu để làm điều bậy thì thà đừng có thì giờ còn hơn. Ông ráng chứng minh rằng con người không cần đi nhanh bằng cần biết mình đi tới đâu, lại đó để làm gì, vậy thì đi nhanh không luôn luôn là một cái lợi.

Ông chua chát bảo một thương gia trẻ tuổi: -Nếu chú xuống địa ngục thì cứ đi chậm chậm lại hơn. Chú là một thằng ngu nếu chú tin rằng tụi Boche bỏ tiền ra và dùng cái máy đó chỉ để cho chú đi nơi này nơi khác và giải quyết công việc làm ăn cho mau. Chú chỉ thấy rằng cái máy đó nó chở chú đi thôi mà không tự hỏi ngoài chú và đồng bào của chú ra, nó còn chở theo gì nữa. Đầu chú đặc quá, không hiểu nổi điều đó. Ừ cứ đi đi muốn đi đâu thì đi, nhưng tôi ngại rằng một ngày kia cuộc hành trình này sẽ làm cho chú thất vọng chua chát. Sẽ tới cái ngày mà xe lửa của thằng Boche sẽ chở chú tới một nơi chú không muốn tới, một nơi chú không sao ngờ được rằng sẽ phải tới.

Mỗi khi nghe tiếng còi rít lên khi chuyến xe chạy vòng cái dốc hiểm trở ở bên kia lữ quán bằng đá, ông Ali Hodja lại cau mày, miệng lẩm bẩm mấy tiếng, không ai nghe được từ cái cửa gỗ nhùi chênh chếch ra cầu đá, và lại suy nghĩ về cái ý cố hữu này của ông: những kiến trúc lớn lao đều do một lời nói mà dựng nên, sự yên ổn và đời sống của bao nhiêu thị trấn và dân cư có thể tùy thuộc một tiếng còi tàu.

Nhưng trong vụ đó cũng như trong mọi vụ khác, ông bị lẻ loi, ai cũng cho ông là kỳ cục, rắc rối. Nói cho ngay, chính nông dân cũng khó quen với xe lửa được. Họ đi xe lửa, nhưng không đoán được thói quen của nó, cho nó là có tánh bất thường. Hừng đông họ từ trên đồi xuống, khi mặt trời mọc thì tới thị trấn, mới đi ngang qua những tiệm đầu tiên, thấy ai là đã lo lắng hỏi ngay: -Cái máy đó chạy chưa?

Bọn thương gia ngồi không ở cửa tiệm, trâng tráo nói gạt họ: -Tội nghiệp chú mày mê loạn rồi sao, nó chạy từ đời nào rồi còn gì nữa

- Nói thực không đấy? Thề đi nào!

- Ngày mai có chuyến khác.

Họ vừa hỏi vừa rảo bước, la mấy người đàn bà và bọn trẻ lết bết ở phía sau.

Thế là họ ba chân bốn cẳng chạy tới nhà ga. Một nhân viên bảo người ta đã gạt họ đấy, còn ba giờ nữa xe mới chạy. Họ ngồi dọc theo tường nhà ga, lấy lại sức, đặt mấy cái đãy xuống, ăn uống, chuyện trò hoặc thiu thiu ngủ, nhưng vẫn coi chừng, và hễ nghe thấy một đầu máy chở hàng nào rúc còi ở đâu đó là họ nhảy chồm lên kẻ trước người sau vừa kéo lết các hành lý vừa la lớn: -Dậy đi. Tàu chạy rồi kìa?

Nhân viên ở trên sân ga, níu họ lại, đẩy họ ra ngoài: -Tôi đã bảo còn hơn ba giờ nữa tàu mới chạy mà. Đâm bổ đi đâu vậy, đồ điên!

Họ trở về chỗ cũ, lại ngồi xuống, những vẫn nghi ngờ. Hễ nghe thấy một tiếng còi hoặc một tiếng động khả nghi nào là họ đứng phắt dậy. Chen lấn nhau ra sân ga, để lại bị dồn trở lại. Người ta lại dặn họ: cứ kiên nhẫn đợi, đừng nghe bậy. Vì người ta muốn nói gì thì nói trong thâm tâm họ vẫn nghĩ rằng cái máy bí mật và âm hiểm đó, do tụi Boche chế tạo, chỉ trong nháy mắt là chạy vọt đi mất, nếu không coi chừng nó. Cái của quỉ đó chỉ tìm cách gạt bọn nông dân mình rồi dông đi mất, để mình ngồi trơ lại.

Nhưng chẳng bao lâu họ quen với xe lửa cũng như với các canh tân khác mới mẻ hơn, làm cho đời sống dễ chịu hơn nữa. Họ tiếp tục lại ngồi trên cái kapia như trước kia, họ vẫn qua cầu vì những công việc hằng ngày, nhưng hễ đi xa thì dùng những phương tiện mới.

Và chiếc eầu vẫn đứng như cũ, trẻ hoài, như mọi công trình hoàn hảo của loài người, khiến ta có cảm tưởng rằng nó không chịu chung số phận của những cái phù du trên kiếp trần này.

Chú thích:

[83] Bệnh đau nhói ở tim, nguy hiểm.

[84] Ông đã bị phe kháng Áo đóng đinh tai ông vào một cây đà ở cầu khi quân áo sắp vô thị trấn – Coi chương IX.

[85] Tức Thượng đế hay Trời của Hồi giáo.