Chương XVII
Từ năm 1908, một nỗi lo lắng lớn lao và đe dọa mơ hồ không ngớt đè nặng lên thị trấn ở bên cạnh cầu.
Sự thực, biến chuyển đó đã bắt đầu từ hồi làm đường xe lửa, trong mấy năm đầu của thế kỷ mới. Vật giá leo thang, tiền bạc và phần lời các cổ phần lúc lên lúc xuống, khiến cho người ta càng ngày càng bàn tán về chính trị.
Trước kia dân chúng chỉ quan tâm tới cái gì liên hệ mật thiết với họ mà họ biết rõ, tới việc kiếm ăn, tiêu khiển, tới gia đình, khu xóm, thị trấn hoặc giáo hội, mà không nhìn xa ra phía trước, phía sau. Nhưng bây giờ trong câu chuyện, càng ngày càng xuất hiện những vấn đề vượt khỏi chân trời thường ngày của họ. Ở Sarajevo người ta thành lập nhiều đảng, nhiều tổ chức tôn giáo, quốc gia của người Serbie và của người Hồi; tức thì ở Vichégrad cũng thành lập ngay những ủy ban địa phương. Nhiều nhật báo mới ở Sarajevo gởi lại thị trấn. Người ta mở phòng đọc sách và hội nhạc. Trước hết là những hội của người Serbie, rồi tới của người Thổ, sau cùng của người Do thái. Học sinh trung học và sinh viên đại học ở Vienne và Prague về nghỉ hè ở quê nhà, đem về nhiều sách mới, nhiều tập mỏng, tuyên truyền và cả lối ăn nói mới. Họ nêu gương cho thanh niên trong thị trấn bảo không nên giữ riêng ý kiến cho mình nữa, như thế hệ đàn anh họ vẫn thường khuyên. Các tổ chức mới, tôn giáo và quốc gia xuất hiện thêm mãi, trên những cơ sở rộng hơn, nhắm những mục tiêu táo bạo hơn, rồi tới các tổ chức thợ thuyền. Lúc đó trong thị trấn người ta mới nghe thấy lần đầu tiên tiếng “làm reo.” Một số chiến hữu trẻ làm ra vẻ nghiêm trang. Chiều chiều họ đàm đạo với nhau trên kapia, người ngoài không ai hiểu gì cả và trao đổi cho nhau những tập tuyên truyền nhỏ không đóng thành sách, mang những nhan đề: Chủ nghĩa xã hội là gì? Tám giờ làm việc, tám giờ nghỉ ngơi, tám giờ trau dồi văn hóa, mục đích và đường lối của giai cấp vô sản thế giới…
Người ta tuyên truyền trong giới nông dân về vấn đề ruộng đất, về tình cảnh của Kmet[86], về đất cát của các bey, Nông dân nghe mà hơi ngó nghiêng, cau mày, râu hơi rung động một chút như ráng sức nhớ để lúc nào ngồi một mình sẽ suy nghĩ, hoặc gặp bạn thì kể lại.
Nhiều người vì thận trọng mà làm thinh hoặc không chấp nhận những ý tưởng mới mẻ đó, những cách suy tư, ăn nói táo bạo đó. Nhưng có một số đông hơn, nhất là trong đám thanh niên, đám nghèo khổ và đám ở không coi đó là những điềm lành hợp với nhu cầu thầm kín của họ bấy lâu nay bị dồn ép, không dám để lộ ra, và đời sống của họ từ nay nhờ vậy mà có một cái gì lớn lao, kích thích. Đọc những diễn văn, bài báo lời phản kháng những giác thư của các tổ chức tôn giáo và các đảng phái ai cũng có cảm tưởng đã cởi được một sự trói buộc nào đó, chân trời mở rộng ra, tư tưởng của mình được giải thoát và sức mạnh của mình hợp nhất với sức mạnh của người khác, cả những người ở xa mà từ trước tới nay mình không nghĩ tới. Và bắt đầu họ nhìn nhau theo một quan điểm mới. Tóm lại, cơ hồ họ thấy đời sống hóa rộng rãi phong phú hơn…
Thực ra họ không có thêm được cái gì mới, không thấy được cái gì tốt hơn nhưng họ đã có thể nhìn ra khỏi đời sống thường ngày trong thị trấn, có một ảo tưởng mênh mông, mạnh mẽ, rất phấn khởi. Tập quán, lối sống, cách giao thiệp giữa họ với nhau vẫn như trước, chi khác là trong câu chuyện họ bàn bạc với nhau về ý tưởng và dùng những tiếng táo bạo. Họ bắt đầu chia rẽ nhau, tập hợp nhau thành nhóm, xô đẩy nhau, thu hút nhau theo những tiêu chuẩn mới, trên những căn bản mới, nhưng vẫn bị những thị dục cũ, những bản năng di truyền chi phối.
Thời đó những biến cố ở ngoài bắt đầu vang dội vào thị trấn. Năng 1903 ở Serbie bỗng có một cuộc thay đổi triều đại rồi sau đó là một sự thay đổi chế độ ở Thổ Nhĩ Kỳ[87]. Vichégrad nằm ngay trên biên giới Serbie, gần biên giới Thổ, và có những liên quan mật thiết, vô hình với cả hai xứ đó, dân chúng xúc động vì những biến cố đó, theo dõi, giải thích tin tức, mặc dầu không công khai biểu lộ minh bạch ý nghĩ cùng cảm tưởng của mình.
Người ta bắt dầu cảm thấy sự tăng gia hoạt động và áp lực của các nhà cầm quyền dân sự, rồi quân sự, theo một hình thức hoàn toàn mới: Xưa kia họ chỉ nhận xét xem mỗi người dân làm gì, hạnh kiểm ra sao; bây giờ họ dò la, điều tra về tư tưởng, cả về ngôn ngữ của mỗi người. Số hiến binh tăng lên hoài trong các làng lân cận dọc theo biên giới. Một sĩ quan trong cơ quan tình báo đặc biệt, gốc gác ở Lika, lại trình diện với quan tư lệnh. Cảnh sát bắt giam và phạt tiền các thanh niên tuyên bố những lời khinh suất hoặc hát những bài ca Serbie bị cấm. Những ngoại nhân khả nghi đều bị trục xuất và ngay cả trong đảng Quốc gia, người ta cũng gây lộn nhau, đánh nhau vì bất đồng ý kiến.
Từ khi có đường xe lửa chẳng những sự di chuyển và chuyên chở được mau hơn, dễ dàng hơn, mà các biến cố gần như đồng thời, cũng dồn dập hơn. Người ta quen với những cảm xúc mới rồi, các tin tức khích động không còn hiếm nữa mà thành như món ăn hàng ngày, một nhu cầu thực sự. Toàn thể cuộc sống dồn về một phía nào đó, bỗng nhiên tăng tốc độ lên như một dòng suối từ trên núi cheo leo đổ xuống thành thác.
Mới có bốn năm trôi qua từ khi luyến xe lửa đầu tiên chạy quạ thị trấn thì một buổi sáng tháng Mười, người ta lại thấy một nhân viên hành chánh tên là Drago dán một tờ bố cáo lớn màu trắng trên cái kapia, ngay dưới tấm bia khắc chữ Thổ. Mới đầu bọn con nít và bọn ăn không ngồi rồi bu lại coi, rồi sau mới tới các người khác. Những người có ăn học, đọc lớn tiếng lên, đánh vần từng chữ và ngừng lại mỗi khi gặp một từ ngữ ngoại quốc và một danh từ mới. Những người kia làm thinh nghe, mắt nhìn xuống; nghe xong rồi, họ còn đứng yên một chút rồi mới bước đi, mặt vẫn cúi xuống, tay đưa lên vuốt râu như thể muốn chùi một tiếng ho xuýt phát ra.
Sau lần tụng kinh buổi trưa Ali Hodja lắp một thanh ngang vào cánh cửa tiệm cho biết rằng tiệm đóng cửa, rồi cũng lại kapia coi. Lần này lời tuyên bố không viết bằng tiếng Thổ, mà ông lại không đọc được tiếng Serbie. Một em trai lớn tiếng đọc một cách máy móc như ở trường:
TUYÊN BỐ
Với dân chúng Bosnie – Herzégovine
“Trẫm, François Josep đệ nhất, Hoàng đế Áo, quốc vương Bohême, vân vân, và Giáo chủ Hung, tuyên bố với dân chúng Bosnie – Herzégovine:
Cách đây một thế … thế hệ, khi đạo quân của Trẫm vượt biên giới của Tổ … quốc … quốc các ông …”
Ali Hodja lại thấy xốn ở tai bên phải, dưới chiếc khăn trắng, và các việc cũ lại hiện ra trước mắt ông, rõ ràng như mới xảy ra hôm trước: cuộc gây lộn với Keramanlia, rồi hắn sai hành hung ông; cho tới khi một lính Boche lại thận trọng nhổ cây đinh ra cho ông, và tờ bố cáo trắng in lời tuyên bố với dân chúng.
Đứa nhỏ đọc tiếp:
“Trẫm đã hứa chắc với các ông rằng người Áo, không phải với tư cách kẻ thù mà với tư cách người bạn. … cư. … cơ cương quy … quyết … quyết dẹp những đau khổ đã bao lâu nay đè nặng lên Tổ qu … quô … quốc các ông.
Lời mà Trẫm đã hứa với các ông trong cơn ng … ngu … nguy bi … bi … biến đó …”
Mọi người la thằng bé đọc không nên thân, nó mắc cỡ đỏ mặt lên, lủi trong đám đông, và một người lạ bận chiếc áo ngoài bằng da, từ trước cơ hồ như đợi dịp đó, bèn thay nó, đọc một hơi liên tục và mau như đọc một bài kinh đã thuộc lòng từ lâu:
“Lời mà Trẫm đã hứa với ông trong cơn nguy biến đó Trẫm đã giữ được. Chánh quyền của Trẫm đã luôn luôn nghiêm trang, siêng năng trong cảnh thái bình và trong phạm vi pháp luật, dìu dắt Tổ quốc các ông tới một tương lai sung sướng hơn.
Và Trẫm rất mừng mà có thể thẳng thắn nói rằng hạt giống gieo trong luống cày một khu rộng tiều tụy đã phát lên thành những cây tươi tốt. Chính các ông cũng đã cảm thấy vậy như cảm thấy một ân huệ: trật tự, an toàn đã thay thế sự tàn bạo, áp chế; công ăn việc làm và cuộc sống luôn luôn phát triển; một nền văn hóa nâng cao tinh thần con người đã được truyền bá; và dưới sự che chở của một chính quyền hợp pháp; mọi người được hưởng công lao làm lụng của mình.
Hết thảy chúng ta đều có cái bổn phận nghiêm trọng tiến hoài không ngừng trên con đường ấy.
Vì nhằm mục tiêu đói Trẫm nghĩ đã tới lúc tỏ cho dân chúng hai xứ thấy Trẫm tin rằng các ông đã già dặn về chính trị.
Để đưa xứ Bosnie và xứ Herzégovine lên một trình độ sình hoạt chính trị cao hơn, Trẫm đã quyết định cho hai xứ được hưởng chế độ hiến pháp – hợp với hoàn cảnh hiện tại và quyền lợi chung của hai xứ – và như vậy ý nguyện cùng quyền lợi của hai xứ sẽ được trình bày trên một căn bản hợp pháp.
Quốc gia của các ông vẫn có như trước, một tổ chức hành chánh riêng biệt, và khi có một quyết định gì liên quan tới việc riêng của quốc gia các ông thì các ông sẽ cất tiếng nói lên.
Nhưng điều kiện đầu tiên cần thiết cho sự qui định hiến pháp quốc gia là phải định rõ địa vị pháp luật của hai xứ. Đặt căn bản trên qui tắc đó và muốn duy trì những liên hệ có từ thời xa giữa các Tiên vương trên ngai vàng Hung, và hai xứ đó, Trẫm sẽ mở rộng quyền thống trị qua hai xứ Bosnie và Herzégovine.[88]
Như vậy là dân hai xứ sẽ được hưởng những ân huệ, lợi ích do sự tăng cường liên hệ giữa chúng ta với nhau mà sẽ được khai hóa hơn, thịnh vượng hơn.
Hỡi dân chúng Bosnie và Herzégovine!
Trẫm tuy bận tâm nhiều về triều chính mà vẫn không quên làm sao cho dân chúng hai xứ được thịnh vượng về vật chất và tinh thần. Các ông sẽ được hưởng đầy đủ: từ sự bình đẳng trước pháp luật, quyền dự vào việc lập pháp, hành pháp tới quyền được che chở đồng đều về tín ngưỡng, ngôn ngữ và phong tục riêng biệt của mỗi xứ.
Tự do cá nhân và lợi ích chung, đó là ngôi sao chỉ hướng cho chính quyền của Trẫm để dìu dắt hai xứ …”
Miệng hơi há ra, đầu cúi xuống, Ali Hodja nghe lời bố cáo đó; có nhiều tiếng lạ tai, ông không biết, và nhiều tiếng khác tuy quen thuộc nhưng có cái gì kỳ dị, khó hiểu như. “Hạt giống gieo trong xuống cày một khu ruộng tiều tụy”, “điều kiện cần thiết cho sự qui định hiến pháp quốc gia”, “định rõ địa vị pháp luật của hai xứ”, “ngôi sao chỉ hướng cho chính quyền của Trẫm.” Phải, lại là những “danh từ đế quốc” nữa đây. Và gặp mỗi danh từ đó, ông lại thấy hoặc một viễn tượng kỳ quái, nguy hiểm, hoặc một tấm màn xám xám màu chì rủ xuống trước mắt ông.
Trong cuộc đời này cái gì cũng có thể xảy ra được, cả những phép màu nữa – Có thể một người nghe kỹ, chẳng hiểu gì về chi tiết mà nhận được đúng ý nghĩa toàn thể. Hạt giống, ngôi sao, những bận tâm về triều chính đó, tuy diễn bằng một ngoại ngữ, vậy mà ông Hodja có cảm tưởng hiểu được người ta muốn nói gì, muốn đạt tới mục đích gì. Là vì từ ba chục năm nay, các hoàng đế vẫn thường hô hào các xứ, các thị trấn, các dân tộc. Và mỗi lời trong các tuyên ngôn của họ đều có những hậu quả quan trọng: vì những lời đó mà các xứ bị tâm phân ngũ liệt mà dân chúng thì bị bay đầu. Người ta nói tới “hạt giống, … ngôi sao … bận tâm về triều chính …” là để khỏi phải nói thẳng ra sự kiện này: các xứ, các tinh với dân chúng, nhà cửa trong những nơi đó chuyền từ tay kẻ này sang tay kẻ khác như những đồng tiền vậy, mà một người thực tin Chúa, thực có thiện ý thì không thể sồng yên ổn trên trái đất này được, không sao kiếm được những thứ cần thiết nhất trong kiếp đời ngắn ngủi của mình, của cải người đó thay đổi ngoài ý muốn của hắn, trái hẳn với thị hiếu và thiện ý của hắn.
Ali Hodja nghe mà luôn luôn có cảm tưởng rằng chính là những lời ông đã nghe ba chục năm trước, và ngực ông lúc này cũng nặng như chì như hồi đó.
“Còn về phần các ông thì chắc chắn sẽ tỏ ra xứng đáng với lòng tin cậy của Trẫm, để cho trong công việc chung của chúng ta, luôn luôn có sự hòa hợp cao cả, nó là thứ bảo đảm qúy báu nhất cho sự tiến bộ của quốc gia.
Ban trong kinh đô và hoàng cung Budapest
François Joseph ngự bút.”
Người bận áo ngoài bằng da đọc tới đó là hết và chú ta bỗng la lớn một cách bất ngờ: -Vạn tuế Hoàng thượng?
Chú Ferkhat cao ngỏng coi việc thắp đèn trong thị trấn cũng hô theo: -Vạn tuế!
Đúng lúc đó, các người khác lặng lẽ giải tán.
Trời hôm đó chưa tối thì tờ bố cáo lớn, trắng đó đã bị xé rách liệng xuống sông Drina. Hôm sau người ta bắt giam vài người bị tình nghi và trên cái kapia người ta lại dán một tờ bố cáo trắng khác, đặt một vệ binh đứng coi.
Khi một chính quyền thấy cần phải dùng bố cáo mà hứa với dân sẽ được thái bình, thịnh vượng thì chúng ta phải coi chừng, tình thế sẽ ngược hẳn lại đấy. Ngay từ cuối tháng Mười, quân đội đã bắt đầu tới, bằng đường xe lửa và cả bằng đường lộ cũ đã bỏ rồi nữa. Cũng như ba lục năm trước họ theo con đường hẹp và dốc từ Sarajevo xuống, qua cầu để vô thị trấn chở theo dụng cụ và quân nhu. Có đủ các binh chủng, trừ kỵ binh. Trại lính nào cũng đông nghẹt. Có kẻ phải dựng lều ở ngoài. Có nhiều đơn vị mới tới, ngừng vài ngày trong thị trấn rồi chia nhau ra đóng trong các làng dọc theo biên giới đối diện với Serbie. Quân lính đa số là trừ bị, thuộc nhiều quốc tịch, và có nhiều tiền. Họ vô mua vặt trong các tiệm, mua trái cây và kẹo bánh ở góc đường. Giá cả tăng lên vùn vụt. Cỏ khô và lúa kiều mạch thiếu hẳn. Trên những đồi chung quanh thị trấn, người ta bắt đầu xây dựng pháo đài. Và ngay trên cầu người ta cũng khởi sự một công việc lạ lùng. Ớ giữa cầu, từ thị trấn qua vừa hết cái kapia, một bọn thợ đặc biệt bắt đầu đục trong một cột cầu một cái hố lớn, rộng khoảng một thước vuông. Người ta dựng một căn lều màu xanh lá cây che chỗ làm việc, và từ trong lều đưa lên hoài những tiếng đục phá, mỗi ngày một đục xuống sâu. Đá đục rồi được liệng ngay qua khỏi cái bao lơn xuống sông. Mặc dầu công việc được giấu kỹ mà trong thị trấn ai cũng biết rằng họ đương đặt mìn trong cầu, để khi chiến tranh có xảy ra thì phá cầu nếu thấy cần. Trong lỗ đào đó, người ta dựng một cái thang dài bằng sắt, và khi mọi việc xong cả, người ta đặt một tấm sắt lấp miệng lỗ. Chỉ vài ngày sau, tấm sắt đó đã cùng một màu với đá, bụi; xe cộ, ngựa khách bộ hành vội vã dẫm lên, bước qua mà không nghĩ tới mìn và thuốc nổ nữa. Chỉ có bọn con trai đi học là ngừng lại, gõ nhè nhẹ vào tấm sắt, đoán xem dưới đó có cái gì, tưởng tượng có một thằng Mọi da đen mới bi nhốt trong cầu, cãi nhau về chất nổ, nó làm bằng gì, tác động ra sao và một kiến trúc lớn như vậy có thể bi phá hủy hoàn toàn không.
Trong số các người lớn, chỉ duy có Ali Hodja là lảng vảng chung quanh, vẻ mặt ủ rũ, nghi kỵ, xem xét trước hết cái lều rồi sau tới tấm sắt. Ông lắng tai nghe người ta bàn tán thì thầm với nhau: trong cột cầu đó họ đã đào một lỗ, tựa như một cái giếng, rồi đặt vào đó các chất nổ, những chất này được nối vào bờ bằng một dây điện, như vậy, viên tư lệnh có thể bất kỳ lúc nào, đêm hay ngày, phá chiếc cầu ở khúc giữa, như thế cầu làm bằng đường cục chứ không phải bằng đá. Ông Hodja gật đầu, suy nghĩ cả ban ngày, khi ông rút lui vô “quan tài” của ông, lẫn ban đêm, khi ông lên giường để ngủ; lúc thì ông chấp nhận, lúc thì ông bác bỏ, cho rằng ý phá cầu đó điên khùng, nghịch đạo quá không thể có được, nhưng lúc nào ông cũng thắc mắc tới nỗi ông nằm mộng thấy những vị tiền nhiệm của ông quản lý qũl từ thiện vakouf của quan tể tướng Mehmed Pacha nghiêm khắc hỏi ông họ đương làm cái gì trên cầu đó. Ông những muốn hỏi ai trong số các thân hào, cho rằng từ lâu rồi không còn ai biết phải trái nữa …
Vậy mà một hôm, ông có cơ hội hỏi về việc đó. Một bey trong dòng Brankovitch ở Tsrncha tên là Mouhamed, phục vụ trong quân đội ở Vieune, được giải ngũ rồi lại xin tái dịch, lên tới cấp chánh đội. (Thầy là cháu nội ông Chemsiberg buồn rầu vì quê hương bị chiếm đóng, không ra khỏi Tsrntcha, rầu rĩ chết tại đói và tới nay vẫn được các người Thồ lớn tuổi coi là một gương mẫu tinh thần cao thượng không ai theo kịp, nói sao làm vậy[89]. Năm đó Mouhamed Bey nghỉ phép về thăm quê. Thầy cao lớn, mập mạp, tóc hng hung, bận quân phục màu lam rất đẹp, có lon vàng, nẹp đỏ, và những ngôi sao nhỏ bằng bạc ở cổ tay đeo găng trắng như tuyết, đầu đội mũ fez đỏ. Lễ phép, tươi cười, y phục không một vết dơ, cử chỉ thái độ đàng hoàng; thầy đi dạo khu thương mại, thanh gươm dài chạm nhè nhẹ trên mặt đá lát, tỏ vẻ nhã nhặn, dễ dãi với bất kỳ ai, rõ ra vẻ ruột người đọc hưởng lộc vua, tự tín mà cũng chẳng ngại gì ai cả.
Thầy đội cũng lại thăm cả ông Hodja ở trong tiệm, vấn an ông rồi ngồi chơi uống cà phê; ông nhân cơ hội đó hỏi về điều đương làm ông lo lắng, vì một người tin cẩn của hoàng đế, sống ở đế đô thì tất phải biết. Ông kể lại việc xảy ra trên cầu với lời đồn trong thị trấn, và hỏi một chuyện lạ lùng như vậy có thể có được không, có thực người ta theo một kế hoạch đã vạch sẵn, chuẩn bị phá một công trình từ thiện, công ích như chiếc cầu này không.
Khi vừa mới hiểu là chuyện gì rồi, thầy đội bỗng hóa ra nghiêm trang, nụ cười biến mất, khuôn mặt nhẵn nhụi chai lại, như trong cuộc diễn binh, nghe tiếng hô: Nghiêm? Thầy làm thinh một lát, có vẻ hơi lúng túng rồi hạ giọng xuống đáp: -Có một phần đúng trong đó. Nhưng chỗ thân mật, tôi nói thực này, đừng nên hỏi những câu như vậy đừng nên nói tới, vì đó là chuyện chuẩn bị chiến tranh, bí mật quân sự vân vân.
Ông Hodja ghét những từ ngữ mới, đặc biệt là tiếng “vân vân” đó. Chẳng phải chỉ vì tiếng đó làm cho ông nổi dóa, mà còn vì ông có cảm tưởng rõ rệt rằng, trong ngôn ngữ ngoại nhân, tiếng đó dùng để che giấu một sự thực sự thực này, mới là cất yếu còn những lời đã nói ra trước đó không quan trọng gì cả.
Ông nồi quạu, ngắt lời: -Thôi đi, đừng dùng cái tiếng “vân vân … vân vân …” đó với tôi thứ tiếng ở cửa miệng họ đó, mà giảng cho tôi nghe đi, nếu thầy biết, người ta làm cái gì ở cầu. Không thể là một bí mật được. Tôi hỏi thầy đội này, bí mật cái quái gì khi mà ngay những trẻ em ở mekteb[90] cũng biết. Và cái cầu đó mà ăn nhập gì với chiến tranh kia chứ!
Mouhamed tươi cười trở lại đáp: -Ăn nhập lắm chứ, sao lại không
Rồi thầy từ tốn giảng bằng một cách hơi hạ cố như khi nói với con nít rằng tất cả cái đó đã được dự liệu trong quân lệnh, đã có đoàn công binh, tốp lính bắc cầu rồi, và trong đạo quân của hoàng gia, người nào cũng chỉ biết công việc của mình thôi, không phải nghĩ tới, không được xen vào công việc người khác.
Ông Hodja vừa nghe vừa nhìn thầy, nhưng chẳng hiểu gì nhiều, nóng lòng, hỏi thêm:
- Được được nói vậy nghe hay lắm, nhưng mà này, họ có biết rằng chiếc cầu này là một công việc từ thiện của quan tể tướng, ngài đã cho xây cất vì lòng kính Chúa và để cầu phước cho linh hồn ngài, như vậy chỉ gỡ một phiến đá của cầu cũng đã là có tội rồi, họ có biết vậy không?
Thầy chánh đội làm thinh, giang tay, nhún vai mím môi, nhắm mắt, và nét mặt của thầy có cái vẻ qui quyệt mà lễ độ, trơ trơ, đui, điếc, mà chỉ những kẻ phục vụ lâu trong nhưng cơ quan hành pháp cổ lỗ, thối nát mới có được những cơ quan đó làm cho tính kín đáo biến thành ra vô tri vô giác, tính phục tòng biến thành hèn nhát. Một tờ giấy trắng mà còn diễn được một ý gì, chứ nét mặt thận trọng, giả câm giả điếc thì tuyệt nhiên không.
Rồi con người tin cẩn của hoàng đế đó hạ ngay hai cánh tay xuống, mở mắt ra, không nhăn mặt nữa, lại có cái vẻ như trước, bình thản, tự tin, tươi cười; tính chất phác của người Vienne và tính lễ phép của người Thổ hòa với nhau trên mặt thầy, như hai dòng nước. Thầy nói lảng qua chuyện khác, dùng những tiếng thanh lịch khen ông Hodja vẫn còn khỏe mạnh, trẻ trung rồi cáo từ, một cách nhã nhặn vô cùng y như khi tới. Ông Hodja bối rối, hoang mang, vẫn lo lắng như trước. Ngồi phía trước cửa tiệm, ông vừa ưu tư vừa nhìn vẻ đẹp rực rỡ của ngày đầu tháng ba. Trước mặt ông là chiếc cầu chênh chếch. Vĩnh cữu, y cựu nhìn qua những nhịp cầu trắng, ông thấy mặt nước xanh, sáng và cuồn cuộn của sông Drina, coi như một dây chuỗi kì dị có hai màu lấp lánh dưới ánh nắng.
Chú thích:
[86] Nông nô.
[87] Sau khi một nhóm sĩ quan ám sát Vua Alexandre trong dòng họ Obrenovitch và hoàng hậu Drage (10.6.1903); ngai vàng ở Serbie truyền qua Pierre đệ nhất, trong dòng họ Karageorgevitch – Tháng 7 năm 1908, cuộc cách mạng “Thanh mền Thổ Nhĩ Kỳ” lật đổ chế độ của triều đình Hamid. Đảng thanh niên Thổ, do ủy ban “Đoàn kết và Tiến bộ” chi huy thuyết phục liên kết được các sĩ quan trong đồn Salonique, gây một cuộc nổi loạn chống vua Abdel Hamid và truất ngôi của ông. Đảng thanh niên Thổ muốn canh tân Đế quốc Thổ để mạnh lên mà có thể chống với châu Âu được.
[88] Nghĩa là Áo viện lẽ Hung đã thuộc về Áo, mà Hung trước kia làm chủ hai xứ đó, thì bây giờ Áo cũng sát nhập luôn hai xứ đó như vậy là Bosnie và Kezégovine không còn liên hệ gì với Thổ nữa.
[89] Coi lại chương XI
[90] Trường Hồi giáo dạy kinh Coran.