Chương XVIII
Tình trạng căng thẳng mà trên thế giới người ta gọi là “nguy cơ thôn tính vừa mới thiếu một bóng u ám báo hiệu điềm gở lên trên cái cầu và thị trấn Vichégrad thì bỗng nhiên dịu xuống. Ở phía xa kia, trong các thư từ ngoại giao hoặc các cuộc thương thuyết giữa các kinh đô liên hệ, người ta đã tìm được một giải pháp hòa bình.
Biên giới thời nào cũng dễ cháy bùng lên đó, lần này không bắt lửa. Nhưng đội quân đông đảo mới tràn ngập thị trấn và các làng ở biên giới thì bắt đầu rút im ngay từ đầu xuân. Nhưng luôn luôn như vậy, nguy cơ qua rồi mà hậu quả của nó, thì vẫn còn. Trại lính trong thị trấn bây giờ lớn hơn hồi trước. Cây cầu vẫn còn bị đặt mìn nhưng không còn ai nghĩ tới mìn nữa trừ Ali Hodja. Khoảng đất cao phẳng ở bên trái, gần cầu, trồng cây ăn trái đã bị nhà binh chiếm, đốn cây để xây một ngôi nhà đẹp có lầu, ở giữa dùng làm câu lạc bộ cho sĩ quan vì số sĩ quan tăng lên nhiều, câu lạc bộ cũ ở trên đồi Bikavats, chỉ có một từng nhỏ, hóa ra chật hẹp quá (…)
Vật giá mùa thu năm trước đã nhảy vọt lên vì quân đội tới đông, bây giờ đứng lại, nhưng có xu hướng muốn tăng lên chứ không muốn trở về giá cũ. Năm nay người ta thành lập hai ngân hàng, một của người Serbie, một của người Hồi giáo. Người ta dùng hối phiếu như dùng dược phẩm. Ai cũng dễ mang nợ hơn. Nhưng càng có nhiều tiền thì người ta lại càng túng. Chỉ hạng người tiêu vung lên, quá số kiếm được là thấy đời dễ dàng hơn, đẹp hơn còn bọn thương nhân và làm áp phe thì lo lắng. Kỳ hạn cho thiếu chịu tiền mua hàng cứ càng ngày càng ngắn lại. Hạng khách hàng sòng phẳng hóa ra hiếm. Số hàng hóa giá cao quá, đa số mua không nổi, tăng lên hoài. Người ta mua lẻ và đòi những hàng rẻ hơn. Chỉ những khách hàng khả nghi là còn mua nhiều. Chỉ có mỗi một việc làm ăn chắc chấn là cung cấp đồ cho quân đội và các cơ quan chính quyền, nhưng không phải ai cũng nhận được những com-măng đó. Thuế quốc gia, thuế thị trấn mỗi ngày mỗi nhiều, mỗi nặng; việc thu thuế gay gắt hơn. Người ta cảm thấy giá các chứng khoán bấp bênh nguy hại. Trong tình trạng đó nhưng số lời vào tay ai kia chứ bọn tiểu thương, cả trong những miền xa xôi hẻo lánh nhất, bọn mua đi bán lại và bọn tiêu thụ thì phải chịu thiệt thòi lỗ lã.
Tâm trạng dân chúng trong thị trấn, không còn thanh thản, bình tĩnh nữa. Tình hình tuy đột nhiên hết căng thẳng mà cả người Serbie lẫn người Hồi giáo vẫn không thực sự yên tâm. Kẻ thì thất vọng ngầm, kẻ thì nghi ky sợ sệt không biết tương lai ra sao. Chẳng có lý do gì hiển nhiên, trực tiếp mà người ta cũng thấy lo lắng thêm, chờ đợi những biến cố lớn lao hơn nữa. Không ai còn thỏa mãn về cuộc phẳng lặng đơn điệu từ bao lâu nay nữa. Ai cũng muốn được hưởng nhiều hơn, cũng đòi hỏi một tình thế tốt đẹp hơn; hoặc lo ngại một tình thế bi đát hơn. Các ông già bà cả còn tiếc “cảnh yên ổn, thong thả” thời đô hộ của Thổ, và trong mấy chục năm đầu bị chiếm đóng, cho nó là mục đích tối hậu, là hình thức hoàn hảo nhất của đời sống quốc gia và tư nhân. Nhưng số người đó rất ít, còn hết thảy các người khác thì đều mong một cuộc đời ồn ào, náo nhiệt, kích thích, muốn có nhiều cảm giác hơn, do đó chẳng những tâm trạng con người thay đổi mà bộ mặt của thị trấn cũng thay đổi. Cuộc sống theo lối cổ, đều đều trên cái kapia, bình tĩnh chuyện trò, suy tư, cười cợt vô hại, hát những khúc yêu đương giữa cảnh trời nước mây núi, cuộc sống đó cũng bắt đầu biến chuyển.
Ông chủ quán cà phê trên kapia đã mua một chiếc máy hát, một cái thùng nặng bằng gỗ với một cái vòi lớn bằng chiếc thiếc miệng loe ra như một bông hoa màu thanh thiên lợt. Người con trai của ông thay đĩa và kim, lên dây hoài cái máy oang oang đó nó làm rang chuyển cả cái kapia và vang dội cả hai bên bờ sông. Ông ta phải mua nó để theo kịp các người cạnh tranh với ông, vì người ta vặn máy hát chẳng những trong các cuộc hội họp, trong phòng đọc sách, mà cả trong những quán cóc ở ngoài thành nữa, nơi mà xưa kia người ta ngồi dưới bóng cây bồ đề, trên bãi cỏ hoặc trên sân chói lọi ánh nắng mà chuyện trò nho nhỏ với nhau, trao đổi với nhau vài tiếng. Đâu đâu cũng nghe thấy tiếng máy hát eo éo oang oang phát ra những bài tiến quân ca của Thổ, những bài hát ái quốc của Serbie hoặc những khúc ca kịch nhỏ ở Vieune, tùy sở thích khách hàng. Vì thiên hạ chỉ lại ăn uống, mua bán tại những nơi ồn ào, náo nhiệt
Người ta nghiến ngấu đọc nhật báo, nhưng chỉ đọc lướt qua thôi, chỉ lựa những tờ in trang đầu những tít giật gân bằng chữ lớn. Những bài in bằng chữ nhỏ ở góc trang thì chẳng ai thèm đọc. Bọn trẻ cho rằng buổi tối trước khi đi ngủ, mà tai không vang lên, mắt không chói lên vì những điều đã nghe thấy, đã đọc được trong ngày thì ngày đó kể như bỏ đi.
Các vị agal, efendi trong thị trấn, nghiêm trang và bề ngoài ra vẻ thản nhiên, lại kapia để nghe tin tức trên báo về chiến tranh Ý – Thổ ở Tripolitaine[91]. Họ hăm hở nghe những tin về một vị tư lệnh Thổ còn trẻ tên là Enver Bey, anh dũng chiến đấu với Ý để bảo vệ đất đai của Thổ, coi ông ta như là dòng dõi của Sokolovitch hoặc của Tchouprilitch. Họ cau mày khi tiếng ồn ào của máy hát, làm cho khó suy tư và họ thành tâm rất lo sợ cho số phận miền xa xôi thuộc Thổ tại châu Phi đó, mặc dầu không để lộ ra nét mặt.
Đúng lúc đó, chú Pero, tức kiều dân ý Pietro đi làm về bước qua cầu, quần áo đầy bụi trắng và vết sơn, vết dầu thông. Chú đã già rồi, lưng khòm hơn trước, khúm núm, sợ sệt. Không hiểu tại sao, lần này cũng như lần Luccheni ám sát Nữ hoàng Áo, chú tự cho là chịu chung cái tội của đồng bào chú ở một miền xa xôi đó trên địa cầu mặc dầu đã bao lâu nay chú không còn liên lạc gì với đồng bào Ý của chú. Một thanh niên Thổ la lớn với chú: -Mày muốn Tripoli hả, thằng chó đẻ kia! Đây nè, cầm lấy!
Nó vừa la vừa đưa tay ra đo “từ bàn tay tới khuỷu tay” và làm vài cử chỉ tục tĩu khác nữa.
Chú Pero mệt mỏi khòm lưng xuống, dụng cụ cắp dưới nách, kéo sụp thiếc mũ tới mắt, run rẫy nghiến chặt ống điếu, rảo bước vế nhà ở trên khu Meidan.
Mụ Stana cũng già nua sức suy rồi nhưng miệng vẫn oang oang và răng vẫn cứng. Chú chua chát phàn nàn với vợ rằng tụi thanh niên nói bậy bạ với chú, buộc chú phải trả Tripoli mà mới ngày trước chú có biết Tripoli ở cái xó xinh nào đâu. Stana vẫn không chịu hiểu chú, an ủi chú, bảo lỗi tại chú, chú bị chúng chửi là đáng kiếp.
- Nếu anh thực là một người đàn ông, thì anh cầm cái kéo hay cái búa của anh, mà đập lên cái mặt nham nhở của chúng, và chúng sẽ chừa không dám chửi anh nữa mà phải vội vàng đứng dậy khi anh qua cầu.
Chú Pero bình tĩnh, hơi rầu rầu đáp: -Mình ơi, làm sao mà một người lại có thể cầm búa đập vào mặt người đồng loại cho được hở mình?
Mấy năm đó trôi qua như vậy, rồi hết mùa thu[92] năm 1912, bước qua năm 1913, là chiến tranh Balkan với những thắng trận của Serbie. và thực là một ngoại lệ kỳ dị chính một biến cố quan trọng như vậy đối với số phận cây cầu, và số phận thị trấn thì lại lặng lẽ xảy ra, dân làng không ai để ý tới.
Ngày tháng mười trôi qua, sáng và chiều hồng hồng, giữa trưa vàng rực, đã sắp tới mùa hái bắp và cất rượu mới. Xế trưa, ngồi dưới ánh nắng trên cái kapia vẫn còn thấy dễ chịu. Thời tiết cơ hồ đã làm cho gió ngừng thổi trên thị trấn. Đúng lúc đó thì biến cố xảy ra.
Hạng người có ăn học đọc các tin tức trái ngược nhau trên báo, chưa kịp nhận định được gì cả, còn hoang mang, thì chiến tranh giữa Thổ và bốn quốc gia Balkan[93] đã bùng nổ và tiến theo những con đường cũ kỹ mà qua miền Balkan. Và trước khi thế giới hiểu được rõ ý nghĩa cùng ảnh hưởng lớn lao của chiến tranh đó thì quân Serbie và Ki tô giáo đã thắng Thổ, và chiến tranh chấm dứt. Những cái đó xảy ra ở xa Vichégrad, không có tiếng súng, tiếng đại bác trên biên giới mà cũng không có đầu người bị chặt trên kapia. Thật mau lẹ không ngờ được, như các biến cố lớn về thương mại, tiền bạc vậy. Ở một nơi nào đó trên địa cầu người ta xổ số hoặc giao tranh với nhau, mà số phận của chúng ta ở xa lơ xa lắc phải chịu ảnh hưởng.
Bề ngoài của thị trấn tuy bình tĩnh, không thay đổi gì cả mà trong tâm hồn mọi người thì nổi lên những cơn giông tố dữ dội, hoặc hăng hái, kích thích, hoặc chán nản, tuyệt vọng, tùy hạng người: Serbie hay Hồi giáo. Kẻ kia mừng rỡ vì kết quả ngoài ước vọng của họ, kẻ này sợ sệt quá mức, cơ hồ như vô lý nữa.
Chiến tranh đó kết thúc nhanh quá, một cách giản dị khác thường, dân chúng Vichégrad chỉ trông thấy, cảm thấy như một mũi tên vụt qua thôi.
Ở Ouvats[94], nơi mà biên giới Áo, Hung và Thổ chạy theo con sông cũng mang tên đó, có một cây cầu gỗ bên đây là trại quân áo, bên kia là đồn canh Thổ. Một sĩ quan Thổ với vài lính hộ vệ qua cầu, đưa thanh gươm lên đập vào thành cầu, bẻ gãy làm đôi rồi qua địa phận Áo, điệu bộ như đóng kịch. Đúng lúc đó, bộ binh Serbie bận quân phục xám từ trên đồi xuống để thay những đội quân chánh qui Thổ khí giới cổ lỗ suốt dọc biên giới Bosnie và Sandjak. Thế là mất cái điểm ba biên giới Áo, Thổ, Serbie giao nhau. Biên giới Thổ hôm trước chỉ cách Vichégrad có mười lăm cây số, bây giờ bỗng lùi ra hơn hai ngàn cây số, ở một nơi nào đó, phía bên kia Iedrene.[95]
Những biến chuyển lớn lao, mau lẹ như vậy làm thị trấn rung động tới nền tảng.
Thực tai hại cho chiếc cầu trên sông Drina. Như chúng ta đã biết, con đường xe lửa Vichégrad – Sarajevo đã làm cho nó mất hết hên lạc với phương Tây, và bây giờ; chỉ trong một nháy mắt, nó mất nốt liên lạc với phương Đông[96]. Thực ra cái phương Đông này xa đã tạo ra nó, và mới hôm trước còn đó, mặc dầu bị chèn ép sây sát thật đấy nhưng dù sao vẫn thực sự tồn tại, thì bây giờ đây biến mất như một bóng ma. Chiếc cầu chỉ còn nối hai phần của thị trấn và vài chục làng ở hai bên bờ sông Drina.
Xưa kia quan tể tướng ở Sokolovitch có lòng từ thiện xây cất nó để nối hai phần của Đế quốc Thổ và cũng vì lòng “kính mộ Thượng Đế”, muốn cho phương Đông và phương Tây giao thông với nhau dễ dàng, bây giờ nó bị cắt ra khỏi cả Đông lẫn Tây, trơ trọi một mình, như những chiếc tàu đắm hoặc những tiểu giáo đường bỏ hoang. Trong ba thế kỷ nó đã chịu đựng được hết mà tồn tại không thay đổi gì cả, đã trung thành làm nhiệm vụ, nhưng nhu cầu của loài người đã đổi chiều mà sự vật trên đời cũng biến thiên. Nó đồ sộ, vững bền, đẹp đẽ như vậy quân đội và thương đội có thể nối tiếp nhau dùng nó hằng mấy thế kỷ nữa, nhưng do những biến chuyển bất ngờ trong các tương quan nhân loại, nó thình lình bị gạt bỏ ra ngoài trào lưu sinh hoạt. Nhiệm vụ của nó bây giờ không còn hợp với cải vẻ trẻ trung mãi của nó, với những kích thước đồ sộ nhưng điều hòa của nó (…)
Những ngày đầu hè 1913, trời mưa mà ấm áp. Một số người Hồi giáo trong thị trấn ngồi trên kapia, chán nản rầu rĩ. Khoảng mười người trong đám họ, toàn là già cả bao vây một thanh niên đương đọc báo, dịch những từ ngữ ngoại quốc, giảng những danh từ lạ tai và những tên địa lý cho họ nghe. Hết thảy đều bình tĩnh hút thuốc, đăm đăm nhìn phía trước, như không giấu nổi nỗi ưu tư, rối loạn trong lòng. Họ ráng nén niềm lo lắng, cúi nhìn bản đồ trên đó có chỉ rõ bán đảo Balkan sắp bị qua phân ra sao. Họ nhìn tờ giấy mà chẳng thấy gì trên những đường ngoằn ngoèo đó, nhưng họ biết và hiểu hết, vì trong dòng máu họ có sẵn một ý niệm địa lý riêng của họ và họ cảm thấy hình ảnh thế giới từ trong tế bào của họ.
Một ông lão làm bộ thản nhiên hỏi thanh niên đương đọc báo: -Ouchtchoup[97] sẽ thuộc về nước nào?
- Thuộc về Serbie.
- Ồ!
- Thế còn Selanik[98]
- Về Hi Lạp.
- Ồ, ồ!
- Và ledrene?[99]
- Chắc là về Bảo-gia-lợi.
- Ồ, ồ, ồ …!
Không phải là những tiếng than thở ồn ào, rầu rĩ như của phụ nữ và bọn người nhu nhược, mà chi là những tiếng thở dài nhè nhẹ phát ra từ bộ râu rậm của họ và tan trong không khí mùa hè với làn khói thuốc lá. Nhiều ông già đã quá thất tuần. Hồi họ còn nhỏ, chủ quyền của Thổ lên từ Lika và Kordoun[100] tới Istamboul, và từ Istamboul tới miền biên giới vô định, hoang vu của xứ Á Rập xa xăm, không sao vượt qua được kia. (Mà đế quốc Thổ là cái cộng đồng lớn lao bất diệt, bất khả phân của những người thờ Mahomet, tức tất cả cái phần thế giới có những thầy tu Hồi giáo nhắc tín đồ tụng niệm). Họ nhớ rõ điều đó lắm, nhưng cũng nhớ rằng, khi họ lớn lên thì chủ quyền Thổ đã lùi từ Serbie tới Bosnie, rồi từ Bosnie tới Sandjak. Và bấy giờ đây, ngay dưới mắt họ, chủ quyền đó như một thoái trào quái dị thình lình sụp đổ, rút về một miền nào đó họ không thấy, còn họ thì ngồi đây, như những loài rong ở trên đất cạn, bị lường gạt, bị đe dọa, trơ trọi vôi thân phận khốn khổ của họ. Hiển nhiên là cái gì cũng do ý chí của Thượng đế cả, Ngài đã an bài hết thảy nhưng con người khó mà hiểu được, nghĩ tới muốn nghẹt thở mà trong lòng thấy lo lắng, và đồng thời cảm thấy dưới chân mình đất âm hiểm sụp xuống, trôi đi như một tấm thảm, mà những biên giới đáng lẽ vững bền thì lại di động, thay đổi, lùi ra xa, mất hút đi, như những dòng suối vào mùa xuân vậy.
Đó là cảm xúc và ý nghĩ của các ông lão ngồi trên kapia lơ đãng nghe đọc báo. Trên đầu họ, khói thuốc cuộn cuộn, vương vấn. Mây trắng trôi trên trời cao, bị gió một ngày hè có mưa làm cho tan tác, và trên mặt đất bóng mây chạy thật mau, từng đám lớn một.
Đêm tối, bọn thanh niên Serbie ngồi chơi rất khuya cũng trên cái kapia nầy. Họ ngạo nghễ lớn tiếng ca những khoe hát về khẩu đại bác Serbie mà chẳng ai phạt họ cả. Trong bọn họ người ta thường thấy có lẫn sinh viên đại học và học sinh trung học. Hầu hết là những thanh mền xanh xao, gầy ốm, tóc dài, đội mũ đen, phẳng, vành rộng. Mùa thu đó họ lùi Vichégrad thường lắm, mặc dầu đã tựu trường rồi. Họ đi chuyến xe lửa khởi hành từ Sarajevo, mang theo những thư giới thiệu và những mật lệnh, suốt đêm ngồi đợi sáng trên cái kapia chứ không vô thị trấn vì các thanh niên Vichégrad sẽ đưa họ qua Serbie do những nẻo định trước nào đó.
Tới vụ nghỉ hê, thị trấn và cái kapia lại náo nhiệt lên vì nhiều sinh viên, học sinh về với gia đình ở đây. Họ ảnh hưởng tới đời sống thị trấn.
Cuối tháng sáu, một đám học sinh trung học Sarajevo cùng về với nhau rồi trong nửa đầu tháng bảy, các sinh viên luật khoa, y khoa, văn khoa ở các đại học Vienne, Prague, Gratz, Zagreb, lác đác về kẻ trước người sau. Có họ thì ngay bề ngoài của thị trấn cũng thay đổi. Trong khu chợ và trên cái kapia, người ta thấy bóng dáng trẻ trung, kỳ cục của họ; từ thái độ, cách cư xử tới ngôn ngữ, y phục, họ khác hẳn những dân còn thủ cựu ở đây. Họ bận những quần áo màu sẫm Cắt theo lối “Glockenfaon” thời đó cả Trung âu coi là mốt mới nhất, sang trọng rất mực. Mũ của họ bằng rơm mềm, gọi là mũ “panama”, vành bẻ xuống, có đính một sợi băng sáu màu kín đáo. Giày của họ là thứ giày rộng của Mỹ, mũi cong lên. Hầu hết đều cầm những thiếc “can” bằng tre dày lạ lùng: ở “ve” áo, họ đeo dấu hiệu của các Sokol[101] hoặc của một hội sinh viên.
Đồng thời bọn sinh viên cũng đem về những tiếng mới, những cách đùa cợt mới, những bài hát mới, vũ khúc mới, điệu “bal” của mùa đông năm trước, nhất là nhiều sách mới, nhiều tập tuyên truyền nhỏ viết bằng tiếng Serbie, tiếng Tiệp Khắc và tiếng Đức.
Hồi trước, khi mới bị áo chiếm đóng, cũng đã có một số thanh niên du học, nhưng không đông mà cũng không hăm hở, không có tinh thần mới. Trong hai chục năm đầu có vài người tốt nghiệp trường Sư phạm Sarajevo, vài ba người theo ban luật khoa hoặc văn khoa ở Vienne, nhưng họ là những lệ ngoại rất hiếm, những thanh niên khiêm tốn, tầm thường, thi một cách lén lút, không cho ai biết, và đậu rồi thì bị thu hút lẫn lộn trong cái đạo quân xam xám đông vô số, đạo quân quan lại của quốc gia. Nhưng từ ít lâu nay, số sinh viên bỗng tăng lên. Nhờ các hội văn hóa quốc gia giúp đỡ mà ngày nay con cái nông dân và thợ thuyền cũng có thể vô đại học được. Mà tính tình sinh viên còn thay đổi nhiều hơn nữa. Không còn là những sinh viên thời mới bị chiếm đóng, những thanh niên nhút nhát, ngây thơ, cắm cổ học theo cái nghĩa hẹp hòi nhất của tiếng “học” nữa. Không còn là bọn hưởng lạc vô tư lự sau sẽ thành những ông chủ, mà hồi trẻ, sinh lực dồi dào quá, phải đem trút bớt trên cái kapia, khiến cha mẹ họ phải bảo: “Cưới vợ cho nó đi để nó hết ca hát như thằng điên.” Bây giờ là những thanh niên lớp mới, các sinh viên đại học, học sinh trung học các đô thị về, đại đởm, kiêu căng, say mê quyền tự do của dân tộc, quyền sống vui vẻ trẻ trung, quyền được tôn trọng của cá nhân. Cứ mỗi vụ nghỉ hè, họ lại đem về những quan niệm tự do trong các vấn đề xã hội, tôn giáo và tinh thần ái quốc nhiệt liệt phục hồi; tinh thần này, hồi gần đây nhất là từ khi Serbie thắng trong chiến tranh Balkan, đã thành một niềm tin tưởng chung kích thích một khát khao cuồng nhiệt hoạt động và hy sinh trong đám thanh niên.
Kapia là nơi họ thường tới hội họp hơn cả. Sau bữa ăn tối, họ rủ nhau lại đó. Và trong bóng tối, dưới ánh sao hay ánh trăng, trong cảnh tĩnh mịch của ban đêm trên dòng sông nước chảy ào ào, vang lên tiếng ca hát lời đùa cợt, chuyện trò náo nhiệt và tranh luận bất tuyệt, bạo dạn, ngây thơ, thành thực, phóng túng của họ.
Các bạn học hồi nhỏ của họ cũng lại đây đều đều; bọn đó sau khi học xong ban tiểu học, ở lại thị trấn để học nghề, làm công cho các hãng buôn, các xí nghiệp hoặc làm một chân thư ký tầm thường ở thị sảnh. Có hai hạng: Một hạng thỏa mãn về số phận và đời sống, tò mò, ngưỡng mộ các bạn được học nhiều hơn mình mà không ganh tị chút nào cả; một hạng bất mãn vì hoàn cảnh không cho mình được ăn học thêm, ước ao một cái gì cao hơn đẹp hơn mà càng ngày càng thấy nó xa vời thêm, không sao đạt được (…)
[Những sinh viên và học sinh trung học đó là một thế hệ thiên thần nổi loạn; trong cái tuổi xanh ngắn ngủi đó, họ còn có cả sức mạnh cùng cái quyền hạn của thiên thần lẫn tính tự phụ nhiệt liệt của hạng người nổi loạn …]. Đời sống (tiếng đó trở đi trở lại thường trong câu chuyện của họ, cũng như trong văn chương, chính trị thời ấy, và người ta viết bằng chữ hoa cho được tôn nghiêm) đời sống hiện ra trước mặt họ như một đối tượng, một khu vực hoạt động cho những bản năng được giải phóng, những tò mò về tinh thần, những cảm xúc dào dạt tha hồ tung hoành. Trước mặt họ, mọi con đường đều thênh thang mở rộng tới vô cùng. Họ không đặt chân lên đa số những con đường đó nhưng cái khoái lạc say mê của cuộc sống là được (ít nhất là trên lý thuyết) tự do lựa chọn con đường mình muốn rồi có vấp té thì qua con đường khác. Họ có thể suy nghĩ như họ muốn, tự do phê phán mọi thứ, không có hạn chế gì cả; họ dám nói họ muốn gì, và nhiều người trong bọn họ cho rằng nói như vậy là hành động rồi, là thoả mãn được những nhu cầu anh dũng quang vinh của tổ tiên truyền lại, những nhu cầu bạo động, phá hoại, mà nói rồi thì không bắt buộc phải hành động, cũng chẳng phải lãnh một trách nhiệm gì về những điều đã tuyên bố.
Hạng thông minh nhất khinh bỉ những điều họ phải học, coi thường những điều họ có thể làm được mà lại khoe khoang những điều họ không biết, say mê những việc quá sức họ. Chỉ những thanh niên tài giỏi, có nghị lực nhất là thực sự xả thân hành động, cuồng nhiệt như các pha-kia (fakir[102]) rồi chết như con thiêu thân, được người đồng thời biểu dương là hạng người tuẫn đạo, là bậc thánh (vì thế hệ nào mà chẳng có những vị thánh của mình) và nâng lên đặt trên một cái bệ cao thành những gương mẫu không ai đạt được.
Mỗi thế hệ có những ảo tưởng riêng về văn minh, kẻ thì tin rằng nó đương tiến bộ, kẻ lại nghĩ nó đương suy tàn. Sự thực xét chung thì nó hoặc bừng lên, hoặc ầm ĩ và tắt tùy cái nơi ta đứng để nhìn nó. Cái thế hệ hiện đương thảo luận hăng hái về các vấn đề triết lý, xã hội, chính trị trên kapia, dưới ánh sao và trên dòng nước, cũng có cảm tưởng rằng mình đương thắp những ngọn đuốc đầu tiên cho một nền văn minh mới và đương dập tắt những ngọn lửa cuối cùng của một nền văn minh khác đương tàn. Họ chỉ có điểm đặc biệt này: Từ lâu rồi không có một thế hệ nào bạo dạn mơ mộng, nói về đời sống, về khoái lạc về tự do như họ, mà lại được hưởng đời ít hơn họ, chịu đau khổ hơn họ, bị cái ách nô lệ nặng hơn họ.
Những trong những ngày hè 1913 đó, cái gì cũng chưa được phân minh. Cái gì cũng chỉ như một trò mới mẻ, bạo dạn, cảm động trên cái cầu cũ kỹ trăng trắng dưới ánh trăng đó, cái đầu đẹp đẽ và vững bền vững bền hơn tất cả những gì thời gian có thể đem lại, mà mạnh mẽ hơn tất cả những gì con người có thể suy nghĩ hoặc thực hành.
Chú thích:
[91] Miền Tây Libye, từ năm 1835 thuộc về Thổ, năm 1912 Ý thắng Thổ mà chiếm của Thổ.
[92] Ở châu Âu, mùa thu gồm ba tháng cuối năm, vào khoảng từ 22-9 tới 21-12.
[93] Bốn quốc gia đó là Hi Lạp, Bulagane, Serbbie, Monténégro. Chiến tranh đó xảy ra đầu tháng 10 năm 1912, kết thúc tháng 5 năm 1913 – Balkan là bán đảo ở Đông Nam châu Âu, đối điện với Thổ.
[94] Ouvats là một thị trấn nhỏ nằm tại ngã ba sông Ouvats và sông Lim, một chi nhánh trên hữu ngạn sông Drina.
[95] Tức Andrinople.
[96] Tức Thổ Nhĩ Kỳ.
[97] Tức Uskub, tên Thổ của Skopplié.
[98] Tức Salonique
[99] Tức Andriniple
[100] Lika là một miễn cao nguyên nằm từ dãy núi Velebit dọc bờ biển Adriatique ở phía Nam Sen, tới dãy núi Kapela – Kordoun là một miền đồi ở Tây Bắc Lika, phía bên kia dãy núi Kapela. Áo đã tổ chức miền đó thành một “dải” có một chế độ riêng biệt, để chống với Thổ.
[101] Sokol là một hội thể thao thành lập ở Prague năm 1862 lo cả về trí dục, dực dục của thanh niên, luyện cho họ có ý thức chính trị và xã hội.
[102] Một hạng tu sĩ khổ hạnh ở ấn ĐỘ có người dịch ra thuật sĩ.